Hệ thống pháp luật

dùng vũ lực

"dùng vũ lực" được hiểu như sau:

Dùng sức mạnh thể chất (có hoặc không có công cụ, phương tiện) tác động đến thân thể người khác làm người này không thể hoặc không dám kháng cự chống lại ý muốn và việc làm của mình.Thuật ngữ dùng vũ lực được sử dụng trong luật hình sự Việt Nam kể từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực. Trước đó, trong các văn bản pháp luật như trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân năm 1970, thuật ngữ được sử dụng có nội dung tương tự như thuật ngữ dùng vũ lực là thuật ngữ dùng bạo lực. Việc thay thế thuật ngữ dùng bạo lực bằng thuật ngữ dùng vũ lực là cần thiết, đảm bảo tính chính xác hơn về mặt khoa học. Thuật ngữ dùng vũ lực có tính cụ thể, không trừu tượng như thuật ngữ dùng bạo lực.Dùng vũ lực có thể làm người bị tấn công không thể kháng cự lại được, như đánh chủ tài sản ngất đi hoặc trói họ lại để lấy tài sản của họ. Dùng vũ lực cũng có thể làm người bị tấn công không dám kháng cự lại, như đánh phủ đầu làm cho nạn nhân sợ mà không dám phản ứng gì... Với tác dụng như vậy, dùng vũ lực là thủ đoạn để có thể thực hiện được những hành vi nguy hiểm cho xã hội khác nhau như hành vi chiếm đoạt tài sản, hành vi giao cấu với người khác trái ý muốn của họ, hành vi chống lại người thi hành công vụ... Trong luật hình sự Việt Nam, dùng vũ lực được quy định là dấu hiệu của nhiều tội phạm khác nhau như tội cướp tài sản, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em... ở mỗi tội phạm cụ thể, dấu hiệu dùng vũ lực có đặc điểm riêng vì gắn với mục đích cụ thể có tính đặc trưng của từng tội (Xt. Cướp tài sản; Hiếp dâm).