đức trị
"đức trị" được hiểu như sau:
Học thuyết chính trị chủ trương “điều hành chính sự bằng đạo đức”. Phương thức cai trị bằng đạo đức đã xuất hiện tại Trung Quốc từ thời Tây Chu (1066- 771 trước Công nguyên), tới thời Xuân Thu (722 trước Công nguyên - 481 trước Công nguyên), phương thức cai trị này đã được một nhà tư tưởng lớn là Khổng Tử đúc kết và nâng lên thành học thuyết.Khổng Tử cho rằng: “Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lòng quy phục. Hơn nữa, bề trên trọng lễ thì dân không ai dám không tôn kính, bề trên trọng nghĩa thì dân không ai dám không phục tùng, bề trên trọng tín thì dân không ai dám không ăn ở hết lòng”. Khổng Tử cũng chỉ ra rằng thi hành đường lối đức trị tức là “phải thận trọng trong công việc và phải trung thực, tiết kiệm trong việc chi dùng, thương người, sử dụng sức dân phải vào những thời gian thích hợp”. Theo học thuyết của Khổng Tử, để có một xã hội đức trị, từ vua quan cho tới dân chúng đều phải tự sửa mình cho phù hợp với các chuẩn mực đạo đức.Học thuyết đức trị của Khổng Tử nhấn mạnh các điểm sau: 1) Mục đích tối cao của cai trị là ‘‘yên bách tính"-, 2) Người điều hành chính sự phải yên dân bằng cách ban ân huệ cho dân và coi sự giàu có của dân chúng là quan trọng; sai khiến dân phải hợp thời; dùng lễ, nhạc để giáo hóa dân chúng; phải biến thông cảm, đồng tình với dân chúng; không nên đối xử bạo ngược với dân chúng; cần đề bạt hiền tài; 3) Người cai trị cần trung thành, cần mẫn; 4) Người cai trị cần liêm khiết, chí công vô tư.Kế thừa học thuyết đức trị của Khổng Tử, Mạnh Tử, một nhà tư tưởng thời Chiến Quốc (403 trước Công nguyên - 221 trước Công nguyên) tiến thêm một bước giải thích nguồn gốc của đạo đức để chứng minh rằng dùng đạo đức cai trị là lẽ tự nhiên hợp với quy luật. Theo Mạnh Tử, con người sinh ra đã có sẵn tính thiện, được biểu hiện thông qua các cảm xúc tự nhiên là yêu mến, thương xót, hổ thẹn, căm ghét, nhường nhịn, biết phải trái. Những cảm xúc đó chính là đầu mối, là cơ sở của đạo đức.