Hệ thống pháp luật

đồng phạm

"đồng phạm" được hiểu như sau:

(Nhiều người có đủ điều kiện chủ thể của tội phạm) cùng cố ý thực hiện một tội phạm.Đồng phạm là trường hợp phạm tội đặc biệt so với trường hợp phạm tội riêng lẻ. Trong luật hình sự, chế định đồng phạm quy định các dấu hiệu của trường hợp phạm tội được thực hiện bằng hình thức đồng phạm, quy định dấu hiệu của những người đồng phạm cũng như quy định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm.Khái niệm đồng phạm được sử dụng trong luật hình sự Việt Nam kể từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực. Trước đó, Luật hình sự Việt Nam dùng khái niệm cộng phạm.Theo quy định của luật, đồng phạm đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều người có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Những người này phải cùng cố ý thực hiện tội phạm cụ thể. Dấu hiệu “cùng thực hiện tội phạm" đòi hỏi mỗi người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một trong bốn loại hành vi sau: hành vi thực hiện tội phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục thực hiện tội phạm và hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Tương ứng với bốn loại hành vi tham gia này là bốn loại người đồng phạm: 1) Người tổ chức là người đồng phạm giữ vai trò đặc biệt trong các vụ đồng phạm, thể hiện ở vai trò liên kết các cá nhân để hình thành nhóm phạm tội hoặc điều khiển hoạt động của nhóm phạm tội; 2) Người xúi giục là người đồng phạm có hành vi cố ý tác động đến nhận thức và ý chí của người khác, khiến người này phạm tội; 3) Người giúp sức là người đồng phạm đã cố ý tạo ra những điều kiện vật chất hay tinh thần cho việc thực hiện tội phạm; 4) Người thực hành là người đồng phạm đã trực tiếp thực hiện tội phạm. Họ có thể tự mình thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm hoặc chỉ có hành động (cố ý) tác động đến người khác để người này thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Nhưng bản thân những người bị tác động đã thực hiện hành vi đó lại không phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với người đã tác động họ. Ví dụ: thuê trẻ em chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự đốt nhà người khác; kích động người không có năng lực trách nhiệm hình sự (người bị bệnh tâm thần) đánh người khác bị thương tích nặng...Dấu hiệu “cùng cố ý” đòi hỏi những người đồng phạm đều cố ý cũng như đểu biết và mong muốn sự cố ý của người khác khi cùng thực hiện tội phạm. Đồng phạm các tội phạm có dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc còn đòi hỏi những người đồng phạm có cùng mục đích này.Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm được xác định cho từng người đồng phạm trên cơ sở xem xét tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia của từng người đồng phạm.Đồng phạm có thể được phân thành đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp, đồng phạm không có thông mưu trước và đồng phạm có thông mưu trước, đồng phạm thông thường và đồng phạm có tổ chức (phạm tội có tổ chức).Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, đồng phạm được quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.