Hệ thống pháp luật

đối tượng chứng minh

"đối tượng chứng minh" được hiểu như sau:

Tổng hợp tất cả những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự.Đối tượng chứng minh được ghi nhận lần đầu tiên trong Thông tư số 009/NCPL ngày 02.10.1962 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về công tác kiểm tra hồ sơ trước khi xét xử và được nhắc lại trong Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự (kèm theo Thông tư số 16-TATC ngày 27.9.1974 của Tòa án nhân dân tối cao). Tuy nhiên, các quy định này còn đơn giản, mang tính chất liệt kê và mới chỉ được ghi nhận trong văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao. Khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, đối tượng chứng minh được quy định tại Điều 47 Bộ luật này với tiêu đề “Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự". Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, tại Điều 63 quy định về những vấn đề tương tự. Đó là các vấn đề: 1) Có hành vi phạm tội xảy ra hay không; thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; 2) Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự không; mục đích, động cơ phạm tội; 3) Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân bị can, bị cáo; 4) Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.Những vấn đề trên đây là những vấn đề bắt buộc phải chứng minh đối với mọi vụ án hình sự. Riêng đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, ngoài những vấn đề trên, còn phải xác định các tình tiết sau; 1) Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên; 2) Điều kiện sinh sống và giáo dục; 3) Có hay không có người thành niên xúi giục; 4) Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, đối tượng chứng minh được quy định tại Điều 85 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.