Hệ thống pháp luật

doanh nghiệp tư nhân

"doanh nghiệp tư nhân" được hiểu như sau:

Cơ sở kinh doanh thuộc sở hữu của một cá nhân và cá nhân này phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trước các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản tạo ra từ hoạt động kinh doanh.Ở Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp tư nhân lần đầu tiên được sử dụng trong Luật doanh nghiệp tư nhân ban hành ngày 21.12.1990. Hiện nay, doanh nghiệp tư nhân được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp năm 1999. Theo quan niệm hiện hành thi doanh nghiệp tư nhân có các đặc trưng pháp lý sau: 1) Là đơn vị kinh doanh do một cá nhân bỏ vốn thành lập và làm chủ. Cá nhân này vừa là chủ sở hữu doanh nghiệp vừa là người trực tiếp tiến hành các hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận; 2) Chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trước các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản phát sinh từ hoạt động kinh doanh; 3) Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân; chủ doanh nghiệp là nguyên đơn, bị đơn trước tòa án hoặc trọng tài.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân được quy định tại khoản 1 Điều 183 Luật doanh nghiệp năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2014: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.”.