Hệ thống pháp luật

đình chỉ hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật

"đình chỉ hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật" được hiểu như sau:

(Việc một văn bản quy phạm pháp luật) bị ngừng hiệu lực, chờ cơ quan có thẩm quyền xử lý.Khi một văn bản quy phạm pháp luật bị đình chỉ hiệu lực có thể dẫn đến một trong hai trường hợp sau: 1) Văn bản tiếp tục có hiệu lực trở lại nếu không bị hủy bỏ; 2) Văn bản hết hiệu lực nếu bị hủy bỏ. Thời điểm ngừng hiệu lực, tiếp tục có hiệu lực hoặc hết hiệu lực đều phải được quy định rõ tại quyết định đình chỉ thi hành, quyết định xử lý của cơ quan có thẩm quyền.Đình chỉ là tạm ngừng, tạm hoãn. Một văn bản quy phạm pháp luật bị đình chỉ hiệu lực là tạm thời bị ngừng hiệu lực pháp luật. Việc một cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ việc thi hành một văn bản quy phạm pháp luật của một cơ quan nhà nước khác chỉ xảy ra trong trường hợp, cơ quan ra quyết định đình chỉ thường là cơ quan nhà nước cấp trên, trong khi thực hiện quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với cơ quan nhà nước có văn bản bị đình chỉ nhưng không có thẩm quyền bãi bỏ bản thân văn bản đó, quyền bãi bỏ đó thuộc một số cơ quan nhà nước cấp cao hơn. Hiến pháp năm 1992 đã quy định hai trường hợp có sự đình chỉ này: 1) Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền đình chỉ việc thi hành các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc hủy bỏ các văn bản quy phạm pháp luật đó; 2) Chủ tịch Ủy ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành nghị quyết sai, trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời, đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ nghị quyết đó.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, đình chỉ hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại khoản 4 Điều 74 và khoản 4 Điều 98 Hiến pháp năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2013.