điều ước quốc tế x. điều ước.
"điều ước quốc tế x. điều ước." được hiểu như sau:
Là thuật ngữ được dùng để chỉ các thỏa thuận, hiệp định, hiệp ước, nghị định thư... trong quan hệ quốc tế, giữa các chủ thể của luật quốc tế mà trước tiên là giữa các quốc gia, nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt một hoặc một số lĩnh vực nhất định. Điều ước là nguồn cơ bản của luật quốc tế. Điều ước quốc tế có thể là điều ước song phương hoặc đa phương. Chúng có thể là điều ước mở rộng cho tất cả các nước liên quan tham gia trên cơ sở tự nguyện. Điều ước có thể là loại khép kín, chỉ cho một số nước tham gia theo những tiêu chí nhất định. Điều ước có thể hợp pháp (phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế) hoặc không hợp pháp. Điều ước quốc tế không hợp pháp thì không có hiệu lực thi hành. Việc ký kết, gia nhập, thực hiện điều ước quốc tế phải tuân thủ pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về điều ước quốc tế.Việt Nam có hệ thống quy phạm pháp luật về điều ước quốc tế khá hoàn chỉnh.Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế được Quốc hội thông qua ngày 14.6.2005 bao gồm 9 chương, 107 điều, điều chỉnh các vấn đề về việc ký kết, gia nhập, bảo lưu, lưu chiểu, lưu trữ, sao lục, công bố, đăng ký, thực hiện, giải thích, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước và nhân danh Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Điều 2 của Luật này giải thích Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác của pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác.Điều 3 của Luật này quy định việc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế phải tuân thủ những nguyên tắc sau đây: 1) Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi và những nguyên tắc cơ bản khác của pháp luật quốc tế; 2) Phù hợp với các quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 3) Phù hợp với lợi ích quốc gia, đường lối đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 4) Điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ không được trái với điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; 5) Điều ước quốc tế có quy định trái hoặc chưa được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, điều ước quốc tế mà để thực hiện cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải được trình ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi đàm phán, ký hoặc gia nhập; trong trường hợp đàm phán, ký hoặc gia nhập điều ước quốc tế có quy định trái với văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội thì ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội cho ý kiến; 6) Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đồng thời có quyền đòi hỏi thành viên khác cũng phải tuân thủ điều ước quốc tế đó.Điều 6 của Luật xác định rõ quan hệ giữa điều ước quốc tế và các quy định của pháp luật trong nước, theo đó: 1) Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy địnhcủa điều ước quốc tế, 2) Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải đảm đảm không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về cùng một vấn đề; 3) Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.Điều 7 của Luật quy định về các loại điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, theo đó điều ước quốc tế hai bên hoặc nhiều bên mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập bao gồm điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước và điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ.Điều ước quốc tế được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước trong các trường hợp sau: 1) Điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp kí với người đứng đầu Nhà nước khác; 2) Điều ước quốc tế về hòa bình, an ninh, biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia; 3) Điều ước quốc tế về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về tương trợ tư pháp; 4) Điều ước quốc tế về tổ chức quốc tế phổ cập và tổ chức quốc tế khu vực quan trọng; 5) Điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước theo thỏa thuận với bên ký kết nước ngoài.Điều ước quốc tế được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Chính phủ trong các trường hợp sau: 1) Để thực hiện điều ước quốc tế đã được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước; 2) Điều ước quốc tế về các lĩnh vực, trừ các điều ước quốc tế về hòa bình, an ninh, biên giới, lãnh thổ chủ quyền quốc gia; 3) Điều ước quốc tế về các tổ chức quốc tế, trừ trường hợp điều ước quốc tế về tổ chức quốc tế phân cấp và tổ chức quốc tế khu vực quan trọng; 4) Điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Chính phủ theo thỏa thuận với bên ký kết nước ngoài.Theo quy định của Điều 8 của Luật này, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế bằng một trong những hành vi sau: 1) Ký điều ước quốc tế không phải phê chuẩn hoặc phê duyệt; 2) Phê chuẩn điều ước quốc tế; 3) Phê duyệt điều ước quốc tế; 4) Trao đổi văn kiện tạo thành điều ước quốc tế; 5) Gia nhập điều ước quốc tế; 6) Hành vi khác theo thỏa thuận với bên ký kết nước ngoài.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, điều ước được quy định tại khoản 1, 2 Điều 2, Điều 3 và Điều 6 Luật điều ước Quốc tế năm 2016 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 09 tháng 04 năm 2016.