Hệ thống pháp luật

điều tra

"điều tra" được hiểu như sau:

Hoạt động tố tụng hình sự do người và cơ quan có thẩm quyền thực hiện nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ làm cơ sở cho việc truy cứu hay không truy cứu trách nhiệm hình sự.Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, hoạt động điều tra do ba loại cơ quan thực hiện ở các phạm vi và mức độ khác nhau. Đó là Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; cơ quan được giao quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, cảnh sát biển tiến hành một số hoạt động điều tra.Giai đoạn điều tra vụ án hình sự được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ vụ án của Cơ quan điều tra.Đối tượng của hoạt động điều tra là hành vi phạm tội, người phạm tội, thiệt hại do tội phạm gây ra và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án (Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự).Hoạt động điều tra được thực hiện bằng các biện pháp điều tra khác nhau theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định như hỏi cung bị can, lấy lời khai của những người tham gia tố tụng khác, đối chất, nhận dạng, khám xét, thu giữ vật chứng, tài liệu, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, điều tra vụ án hình sự được quy định tại Chương X Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.