Hệ thống pháp luật

điều tra viên

"điều tra viên" được hiểu như sau:

Người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ điều tra hình sự.Trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Điều tra viên được gọi bằng nhiều tên khác nhau như ủy viên tư pháp công an theo sắc lệnh số 131 ngày 30.7.1946 tổ chức Tư pháp Công an; ủy viên công an quân pháp theo sắc lệnh số 230 ngày 20.8.1948 về tổ chức công an quân pháp (tổ chức điều tra trong Bộ Quốc phòng). Pháp luật chưa quy định cụ thể về tiêu chuẩn của những người làm công tác điều tra. Chính vì vậy, hoạt động điều tra có thể do bất kỳ người nào được giao nhiệm vụ trong cơ quan Công an hoặc cơ quan chấp pháp tiến hành. Thuật ngữ “Điều tra viên" được sử dụng khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 được ban hành. Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định Điều tra viên là một trong những người tiến hành tố tụng.Điều tra viên phải có đủ các tiêu chuẩn: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức, liêm khiết và trung thực, có trình độ đại học an ninh, đại học cảnh sát hoặc đại học luật, có chứng chỉ nghiệp vụ điều tra, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của pháp luật, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao thi có thể được bổ nhiệm làm Điều tra viên. Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ, người có trình độ đại học các ngành khác có đủ các tiêu chuẩn nói trên và có chứng chỉ nghiệp vụ điều tra thì cũng có thể được bổ nhiệm làm Điều tra viên.Điều tra viên có ba bậc là Điều tra viên sơ cấp, Điều tra viên trung cấp và Điều tra viên cao cấp.Điều tra viên được phân công điều tra vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1) Lập hồ sơ vụ án hình sự: 2) Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; 3) Quyết định áp giải bị can, quyết định dẫn giải người làm chứng; 4) Thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản; 5) Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra; 6) Tiến hành các hoạt động điều tra khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra theo sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan điều tra.Điều tra viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Thủ trưởng Cơ quan điều tra về những hành vi và quyết định của mình.Trong khi tiến hành hoạt động điều tra, Điều tra viên được ưu tiên mua vé đi lại bằng các phương tiện giao thông công cộng, được miễn cước phí giao thông trong thành phố, thị xã. Trong trường hợp cấp thiết, để ngăn chặn hành động phạm tội, đuổi bắt người phạm tội, cấp cứu người bị nạn, Điều tra viên được sử dụng các phương tiện giao thông, thông tin liên lạc của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tư nhân kể cả người điều khiển phương tiện ấy, trừ các phương tiện của cơ quan ngoại giao. Điều tra viên phải hoàn trả ngay phương tiện đó khi tình huống cấp thiết không còn. Nếu phương tiện bị hư hỏng hoặc mất thì Cơ quan điều tra hữu quan có trách nhiệm bồi thường. Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự có điều quy định những việc Điều tra viên không được làm.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, điều tra viên được quy định tại Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015 và Điều 45, Điều 46 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2015.