Hệ thống pháp luật

Điều kiện chủ thể trong khởi kiện vụ án dân sự

Ngày gửi: 04/08/2018 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL15207

Câu hỏi:

Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam xin cung cấp cho quý khách hàng điều kiện về chủ thể khởi kiện vụ án dân sự.

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Công ty Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam xin cung cấp cho quý khách hàng điều kiện về chủ thể khởi kiện vụ án dân sự như sau:

Là các chủ thể theo quy định của pháp luật được tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS, gồm cá nhân; cơ quan; tổ chức; hộ gia đình; tổ hợp tác đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định, các chủ thể khởi kiện khi thực hiện quyền khởi kiện của mình phải tuân thủ một số điều kiện cơ bản sau:

Một là chủ thể đó phải có năng lực chủ thể pháp luật TTDS, bao gồm năng lực pháp luật tố tụng dân sự (NLPLTTDS) và năng lực hành vi tố tụng dân sự (NLHVTTDS).

NLPLTTDS là khả năng do pháp luật quy định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có những quyền và nghĩa vụ trong TTDS (khoản 1 Điều 57 BLTTDS). NLPLTTDS được coi là điều kiện cần để một chủ thể tham gia vào quá trình TTDS. NLPLTTDS của cá nhân thường xuất hiện khi cá nhân sinh ra và mất đi khi cá nhân đó chết. Khác với NLPLDS của cá nhân, NLPLDS của tổ chức xuất hiện khi tổ chức được thành lập và mất đi khi tổ chức đó chấm dứt hoạt động. NLPLDS của hộ gia đình phát sinh đồng thời  với việc hình thành  hộ gia đình với tư cách chủ thể. Còn đối với tổ hợp tác, NLPLDS của tổ hợp tác phát sinh đồng thời với việc thành lập và chấm dứt khi chấm dứt sự tồn tại của tổ hợp tác với tư cách là một chủ thể. Trong đó thời điểm thành lập tổ hợp tác là thời điểm ủy ban nhân dân cơ sở chứng nhận hợp đồng hợp tác. Còn thời điểm chấm dứt tổ hợp tác đó là thời điểm hết hạn hợp đồng; mục đích hợp tác đã đạt được hoặc các tổ viên thỏa thuận chấm dứt tổ hợp tác (Điều 129 BLDS). Để đảm bảo giải quyết đúng đắn các vụ việc dân sự, pháp luật quy định mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có NLPLTTDS như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Điều 57 BLTTDS). Các chủ thể cũng không thể bị hạn chế hoặc bị tước đoạt quyền và nghĩa vụ TTDS.

>>> Lut sư tư vn pháp lut trc tuyến qua tng đài: 024.6294.9155    

          Tuy nhiên để có thể tự mình hoặc ủy quyền thực hiện hành vi khởi kiện vụ án dân sự thì các chủ thể phải có NLHVTTDS. NLHVTTDS là khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS hoặc ủy quyền cho người đại điện tham gia TTDS. Đối với cá nhân NLHVTTDS có khi cá nhân đó từ đủ 18 tuổi trở lên và có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Đối với cơ quan, tổ chức thì NLHVTTDS phát sinh đồng thời và tồn tại tương ứng cùng với thời điểm thành lập và chấm dứt hoạt động của cơ quan, tổ chức đó. NLHVTTDS của hộ gia đình cũng phát sinh đồng thời với việc hình thành hộ gia đình với tư cách chủ thể. Tuy nhiên năng lực chủ thể của hộ gia đình do pháp luật quy định có tính chất hạn chế trong một số lĩnh vực đó là:

“Hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong sản xuất nông lâm ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác do pháp luật quy định” (Điều 106 BLDS).

Đới với tổ hợp tác NLHVTTDS của tổ hộ tác phát sinh đồng thời với việc thành lập và chấm dứt khi chấm dứt sự tồn tại của tổ hợp tác với tư cách là một chủ thể.

          Hai là bên cạnh việc phải đáp ứng điều kiện về năng lực chủ thể pháp luật TTDS theo quy định của BLTTDS thì các chủ thể khi khởi kiện vụ án dân sự phải có quyền lợi bị xâm phạm, tranh chấp hoặc khởi kiện để bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng. Quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt trong TTDS, nó không cho phép người khác không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật lợi dụng quyền khởi kiện để xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM