Hệ thống pháp luật

Đi cùng nhưng không gây thương tích có phạm tội không?

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL41206

Câu hỏi:

Tôi có em trai 18 tuổi liên quan đến vụ cố ý gây thương tích. Em ấy đi cùng và cũng uống rượu say. Mấy người trong tốp 12 giờ đêm, đang ngồi ở lề đường thì có 2 thanh niên qua hét lên: Công an đây, sao giờ này chưa về ngủ? Xong họ lại nói đại ca Thắng Nam Đông đây. Mấy người trong tốp đi đánh, em tôi không biết tưởng họ đùa nên kéo ra nhưng bị người đó đánh. Em em tức nên cũng đạp 2 phát rồi ra đi xống dưới ngồi. Mấy người trong tốp cũng không đánh nữa đi về nhưng họ lại đuổi theo ném đá. Thế là mấy người trong tốp cầm dao đi đánh nhưng em tôi không đi theo tham gia lúc đó nữa. Kết quả là họ bị 60% thương tích.nhà tôi cũng đã đi thăm và cho họ 5 triệu và em trai tôi cũng đã đi lên xã tự thú trước. Giờ họ kiện, mấy người cầm dao chém đã bị tạm giam còn em tôi vẫn ở nhà. Khi ra tòa liệu em tôi có bị phạt tù không ạ? Mong tòa tư vấn giúp. Xin cảm ơn. Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam. Với thắc mắc của bạn, Công ty Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau: 1. Cơ sở pháp lý: – Bộ luật hình sự 1999. 2.

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật hình sự 1999.

2. Luật sư tư vấn:

Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì  lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật  từ  61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

 4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có một số dấu hiệu đặc trưng sau:

– Người thực hiện hành vi có lỗi cố ý: Cố ý phạm tội là phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:

) Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Nghĩa là người phạm tội được thực hiện do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình nhất định hoặc có thể gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác; mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. 

– Hậu quả: Có thương xảy ra trên thực tế cho người bị hại (từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc trường hợp từ điểm a đến điểm k khoản 1)

– Hành vi khách quan: Là hành vi tác động đến thân thể của người khác làm cho người này bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ như: đâm, chém, đấm đá, đốt cháy, đầu độc,…

– Có mỗi quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Hành vi khách quan phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả và ngược lại hậu quả xảy ra trên thực tế là do hành vi khách quan.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM