Hệ thống pháp luật

đề nghị giao kết hợp đồng dân sự

"đề nghị giao kết hợp đồng dân sự" được hiểu như sau:

Sự bày tỏ ý chí và mong muốn của một người trước người  khác trong việc giao kết hợp đồng dân sự.Người đề nghị giao kết hợp đồng (người thể hiện mong muốn trước tiên) phải đề xuất nội dung chủ yếu của hợp đồng như đối tượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán...Người đề nghị giao kết hợp đồng phải chịu ràng buộc về những nội dung đã đề nghị và không được thay đổi nội dung đó nếu bên được đề nghị đã chấp nhận. Nếu đề nghị có thời hạn trả lời, thì trong thời hạn chờ trả lời người đề nghị cũng chịu sự ràng buộc đó. Trong thời hạn chờ trả lời, người đề nghị không được mời người thứ ba giao kết hợp đồng với đối tượng đã xác định.Nếu người được đề nghị không đồng ý về nội dung nào đó và muốn thay đổi (ví dụ: đổi vật khác, giảm giá...) thì người đó sẽ trở thành người đề nghị mới. Người đề nghị mới cũng chịu sự ràng buộc về nội dung đối với đề nghị của mình trước bên kia.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, đề nghị giao kết hợp đồng dân sự được quy định tại khoản 1 Điều 386 Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015:”Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị).”.