Hệ thống pháp luật

đe dọa giết người

"đe dọa giết người" được hiểu như sau:

(Hành vi) làm cho người khác lo sợ rằng người đe dọa sẽ có hành vi giết người.Đe dọa giết người là hành vi uy hiếp tinh thần người khác qua việc thông báo trước bằng những cách khác nhau (trực tiếp, qua thư, qua điện thoại...) sẽ tước đoạt tính mạng của họ hoặc người thân thích của họ vì lý do nào đó như do thù tức hoặc trong trường hợp không thỏa mãn các đòi hỏi nhất định của người đe dọa như đòi hỏi phải giao tài sản, phải cho giao cấu...Hành vi đe dọa giết người có thể được thực hiện độc lập không có hành vi trái pháp luật khác kèm theo. Nhưng trong nhiều trường hợp, hành vi này là thủ đoạn để thực hiện hành vi trái pháp luật khác. Trong sự thống nhất với hành vi trái pháp luật này, hành vi đe dọa giết người là dấu hiệu của một số tội phạm như tội cướp tài sản, tội hiếp dâm, tội chống người thi hành công vụ…Hành vi đe dọa giết người có thể cấu thành tội độc lập là tội đe doạ giết người trong trường hợp nhất định. Kể từ khi có Bộ luật hình sự năm 1985, đe dọa giết người đã được quy định là tội phạm trong trường hợp có căn cứ làm cho người bị đe dọa thực sự lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện. Để có thể đánh giá được điều này cần dựa vào những tình tiết như nội dung và hình thức đe dọa, hoàn cảnh cụ thể khi hành vi đe dọa xảy ra, nhân thân người đe dọa... Mức độ xử lý tội phạm này trong Bộ luật hình sự hiện hành năm 1999 đã có sự thay đổi theo hướng nghiêm khắc hơn so với Bộ luật hình sự năm 1985. Mức hình phạt tối đa có thể áp dụng cho tội này là 7 năm tù.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, đe dọa giết người được quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.