dấu hiệu định tội
"dấu hiệu định tội" được hiểu như sau:
Dấu hiệu dùng để mô tả tội phạm cụ thể trong luật và cho phép phân biệt tội này với tội khác.Dấu hiệu định tội là những dấu hiệu đặc trưng điển hình, phản ánh được đầy đủ tính chất nguy hiểm của một tội phạm và đủ cho phép phân biệt tội phạm đó với các tội phạm khác. Đó là những dấu hiệu được quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản của một tội. Ví dụ: trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội trộm cắp tài sản có các dấu hiệu định tội sau. 1) (Chủ thể) có hành vi chiếm đoạt; 2) (Hành vi chiếm đoạt) có tính lén lút; 3) (Đối tượng của hành vi chiếm đoạt) là tài sản đang do người khác quản lý. Những dấu hiệu trên là những dấu hiệu đặc trưng điển hình, phản ánh được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản và đủ cho phép phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác, trước hết là các tội xâm phạm sở hữu nói chung và các tội phạm chiếm đoạt tài sản nói riêng.Dấu hiệu định tội thường có ở tất cả các cấu thành tội phạm cơ bản là: 1) Dấu hiệu về chủ thể khi tội phạm đó đòi hỏi chủ thể đặc biệt; 2) Dấu hiệu hành vi khách quan; 3) Dấu hiệu lỗi (nội dung của lỗi nói chung được quy định chung trong Phần chung Bộ luật hình sự).Ngoài ra, còn có thể có dấu hiệu định tội khác và dấu hiệu này chỉ có ở một số tội phạm nhất định. Những dấu hiệu đó có thể là: 1) Đặc điểm của đối tượng tác động như dấu hiệu tài sản bị giao nhầm hoặc do tìm được, bắt được... là dấu hiệu định tội của tội chiếm giữ trái phép tài sản...; 2) Đặc điểm của phương tiện phạm tội như dấu hiệu của đưa hối lộ phải là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là dấu hiệu định tội của tội nhận hoặc đưa hối lộ...; 3) Đặc điểm của địa điểm phạm tội như dấu hiệu qua biên giới là dấu hiệu định tội của tội buôn lậu...;Cần phân biệt dấu hiệu định tội với dấu hiệu định khung. Dấu hiệu định tội dùng để mô tả và để phân biệt tội này với tội khác còn dấu hiệu định khung dùng để mô tả và để phân biệt giữa các trường hợp phạm tội có tính nguy hiểm khác nhau một cách cơ bản của một tội.