dấu hiệu định khung hình phạt
"dấu hiệu định khung hình phạt" được hiểu như sau:
Dấu hiệu trong luật phản ánh mức độ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phù hợp với một khung hình phạt nhất định và là cơ sở pháp lý để định khung hình phạt đối với hành vi đó.Căn cứ vào tính chất của dấu hiệu định khung làm tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên hoặc giảm xuống, có thể phân dấu hiệu định khung hình phạt thành dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng và dấu hiệu định khung giảm nhẹ. Ví dụ: (giết) nhiều người hay (giết người) vì động cơ đê hèn được phản ánh tại Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của tội giết người và khung hình phạt này có mức tối thiểu là 12 năm tù, tối đa là tử hình; phản bội Tổ quốc trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phản ánh tại Điều 78 Bộ luật hình sự năm 1999 là dấu hiệu định khung giảm nhẹ của tội phản bội Tổ quốc và khung này có mức tối đa là 15 năm tù...Những dấu hiệu định khung có thể là dấu hiệu thuộc về mặt khách quan như dấu hiệu mức độ hậu quả hoặc thuộc về mặt chủ quan như tính chất của động cơ hoặc thuộc về nhân thân như dấu hiệu tái phạm nguy hiểm...Cần phân biệt dấu hiệu định khung hình phạt với dấu hiệu tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như với dấu hiệu định tội. Dấu hiệu định khung hình phạt được quy định tại các điều luật quy định tội cụ thể ở khoản của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Có dấu hiệu định khung của tội phạm cụ thể có thể được quy định là dấu hiệu (tình tiết) tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và được áp dụng cho những tội không có dấu hiệu định khung này. Ví dụ: Dấu hiệu tái phạm nguy hiểm là dấu hiệu định khung tăng nặng của nhiều tội như tội cướp tài sản, tội trộm cắp tài sản... nhưng dấu hiệu này cũng được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điều 48 và tình tiết này sẽ được áp dụng cho các tội phạm khác không có dấu hiệu định khung này như tội làm nhục người khác... Tình tiết định khung cũng có thể trở thành định tội khi trường hợp phạm tội có tình tiết định khung của tội cụ thể được tách ra khỏi tội đó và được quy định thành tội riêng. Ví dụ: Trường hợp giết người có tình tiết định khung giảm nhẹ “giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" được quy định thành tội riêng - tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hoặc trường hợp vô ý gây thương tích có tình tiết định khung tăng nặng “do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính’’ được quy định thành tội riêng - tội vô ý gây thương tích... do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính.Khi áp dụng dấu hiệu này phải tuân thủ nguyên tắc: mỗi tình tiết thực tế của vụ án chỉ được sử dụng một lần. Nếu đã được dùng để chứng minh dấu hiệu định tội thì không được dùng lại tình tiết đó để chứng minh dấu hiệu định khung cũng như dấu hiệu tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tương tự như vậy, khi đã được dùng để chứng minh dấu hiệu định khung thì không được dùng lại tình tiết đó để chứng minh dấu hiệu tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.