Hệ thống pháp luật

đất lâm nghiệp

"đất lâm nghiệp" được hiểu như sau:

Một loại đất nằm trong nhóm đất nông nghiệp gồm đất có rừng tự nhiên, đất rừng trồng, đất khoanh nuôi tu bổ tái sinh phục hồi rừng, nuôi dưỡng làm giàu rừng, nghiên cứu thí nghiệm về rừng.Theo quy định của Luật đất đai năm 2003, đất rừng được chia thành 3 loại, đó là đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ và đất rừng đặc dụng với những quy chế pháp lý khác nhau. Mỗi một loại đất rừngđều được xác định với các mục đích khác nhau. Trong khi việc giao và cho thuê đất rừng sản xuấtvới cơ chế thoáng và kêu gọi mọi cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tếđầu tư khai thác sử dụng hợp lý đất rừng thì đối với rừng phòng hộ và rừng đặc dụng chủ yếu giao hoặc cho thuê là các tổ chức kinh tế có chức năng quản lý nguồn tài nguyên rừng mà không cho thuê đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Phần lớn các rừng phòng hộ và rừng đặc dụng đều ở nơi xung yếu, có vị trí quan trọng về an ninh, quốc phòng, là nơi lưu giữ nguồn gen động thực vật rừng quý hiếm gắn với nhiều di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh. Bởi vậy, việc khai thác sử dụng vốn đất rừng phòng hộ và đất rừng đặc dụng chỉ giao cho các ban quản lý rừng, các doanh nghiệp quản lý và phần nào giao khoán cho hộ gia đình, cá nhân sống trong các khu vực có rừng.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, đất rừng sản xuất  được quy định tại Điều 135 Luật đất đai năm 2013; đất rừng phòng hộ được quy định tại Điều 136 Luật đất đai năm 2013; đất rừng đặc dụng được quy định tại Điều 135 Luật đất đai năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2013.