Hệ thống pháp luật

đảo

"đảo" được hiểu như sau:

 Phần đất có nước bao quanh mọi phía (ở giữa đại dương, biển, hồ hoặc sông).Trên thực địa, có đảo nổi - khi thủy triều lên cao nhất vẫn không bị ngập nước, có đảo chìm - khi nước thủy triều lên thì bị ngập. Đảo có thể nằm riêng biệt có thể nằm cạnh nhau tạo thành những quần đảolớn nhỏ tạo thành).Tuy theo vị trí tọa lạc, có thể chia đảo thành ba loại: đảo lục địa, đảo của đới chuyển tiếp từ lục địa đến đại dương và đảo đại dương. Ngoài ra, tùy theo lịch sử hình thành, đảo có thể được phân thành 2 loại: đảo núi lửa và đảo san hô. Đảo núi lửa xuất hiện do kết quả hoạt động của núi lửa ở đáy biển. Đảo san hô được hình thành do sản phẩm của các quần thể san hô, đá vôi san hô.Chế độ pháp lý của đảo tùy thuộc vào vị trí của đảo: nằm ở ven bờ hay ngoài khơi. Đối với đảo ven bờ thì có thể lấy làm mốc xác định đường cơ sở. Vùng nước giữa bờ biển và đảo là nội thủy. Đối với đảo nằm ngoài khơi (trừ đảo hoang, không có người ở, không đời sống kinh tế riêng) cũng có lãnh hải, vùng tiếp giáp và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa (theo chế độ pháp lý như đối với lục địa). Ngoài đảo tự nhiên, còn có đảo nhân tạo với chế độ pháp lý riêng. Theo Công ước luật biển năm 1982, các đảo nhân tạo trên biển không có lãnh hải riêng mà chỉ có một vành đai an toàn rộng 500m với điều kiện không ảnh hưởng đến việc quy định ranh giới lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven bờ.