Hệ thống pháp luật

đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng

"đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng" được hiểu như sau:

Công nhận và chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với tài sản nhằm xác định về mặt pháp lý tài sản đó thuộc sở hữu chung của vợ chồng.Đăng ký quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng xuất phát từ quy định trong pháp luật dân sự về đăng ký quyền sở hữu. Từ năm 1958 cho đến nay, pháp luật dân sự đã quy định những tài sản cần phải đăng ký quyền sở hữu như nhà ở... Như vậy, nếu những tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng thì phải thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu chung của vợ chồng. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng. Trong trường hợp vợ chồng chia tài sản chung, nếu một bên nhận tài sản bằng hiện vật đã đăng ký quyền sở hữu chung (hoặc quyền sử dụng chung như đất đai) mà ghi tên của cả vợ và chồng thì có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền đăng ký cấp lại giấy đăng ký quyền sở hữu (hoặc quyền sử dụng) tài sản cho riêng mình.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Điều 34 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 19 tháng 06 năm 2014.