Hệ thống pháp luật

dân di cư

"dân di cư" được hiểu như sau:

Những người rời bỏ nơi cư trú ở quốc gia mà người đó mang quốc tịch hoặc thường trú để đến cưtrú dài hạn hoặc định cư ở một quốc gia khác.Những người xuất cảnh có thời hạn để thực hiện những mục đích như lao động, học tập... không được coi là những người di cư. Khoản 2 Điều 12 Công ước năm 1966 về các quyền dân sự và chính trị, thừa nhận quyền của mỗi người có quyền rời bỏ nước mình hoặc nơi mình đã thường trú để sang thường trú ở một nước khác. Quyền này theo Công ước có thể bị giới hạn vì những lý do bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự xã hội, sức khỏe, đạo đức của dân cư hoặc các quyền và tự do của những người khác. Có 2 yếu tố chính tác động đến việc di cư hiện nay trên thế giới, đó là yếu tố "thúc đẩy" (push) và yếu tố "lôi kéo" (pull); cụ thể đó là tình trạng thất nghiệp cao ở nhiều nơi trên thế giới, bùng nổ dân số dẫn đến đói nghèo, bệnh tật, kinh tế chậm phát triển, tình trạng vi phạm nhân quyền có hệ thống, nạn thất học, phá hủy môi trường và môi sinh, kỳ thị và phân biệt chủng tộc, nội chiến, chiến tranh... Những yếu tố này là nguyên nhân thúc đẩy dòng người di cư từ các nước chậm phát triển, các khu vực có chiến tranh, nội chiến sang những quốc gia khác, khu vực khác. Bên cạnh đó, cuộc sống vật chất và tinh thần ở những nước phát triển, cơ hội tìm được việc làm, được học hành ở những nước này cũng là những yếu tố lôi kéo dòng người di cư từ các nước kém phát triển. Theo Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR) thì hiện tại luôn có khoảng 22 triệu người đang trên đường rời khỏi nước cư trú, còn theo Hội chữ thập đỏ quốc tế thì khoảng gần nửa tỷ người luôn ở trong tình trạng sẵn sàng rời bỏ nơi cư trú. Nhà nước việt Nam cho phép người dân Việt Nam rời tổ quốc để định cư ở nước ngoài vì lý do đoàn tụ gia đình.