dân chủ trực tiếp
"dân chủ trực tiếp" được hiểu như sau:
Phương thức tôn trọng và thực hiện dân chủ trong các tổ chức, cộng đồng hay xã hội, theo đó quyền dân chủ của các thành viên trong tổ chức,cộng đồng hay xã hội đó được thực hiện một cách trực tiếp do chính bản thân các thành viên đó.Các hoạt động cụ thể nhằm thực hiện dân chủ trực tiếp có thể là việc đóng góp ý kiến vào các quyết sách và văn bản quản lý của chính tổ chức đó hoặc bầu cử trực tiếp.Chế định dân chủ trực tiếp được thể hiện thành một loạt các thiết chế pháp lý cụ thể về các hình thức, phương tiện, cơ chế, thông qua đó, nhân dân trực tiếp thực hiện quyền dân chủ, thể hiện quyền làm chủ xã hội của mình. Thông thường, trong chế định dân chủ trực tiếp, trưng cầu ý dân là hình thức dân chủ trực tiếp cao nhất, qua đó, nhân dân trực tiếp biểu thị ý chí của mình trong việc quyết định những vấn đề có tính quốc sách. Trên thế giới, ở nhiều nước, trưng cầu ý dân được xem là hình thức dân chủ thuần khiết.Ở Việt Nam, qua bốn bản Hiến pháp, từ Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 đến Hiến pháp năm 1992 đều có quy định về trưng cầu ý dân (Hiến pháp năm 1946 - Điều 32, 70; Hiến pháp năm 1959 - Điều 53; Hiến pháp năm 1980 - Điều 100; Hiến pháp năm 1992 - Điều 84). Do những điều kiện khách quan, chủ quan, cho đến nay, chưa có cuộc trưng cầu ý dân nào được tiến hành. Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XI đã có dự án luật về trưng cầu ý dân. Bầu cử các đại biểu thay mặt mình ở cơ quan đại diện như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp là hình thức dân chủ trực tiếp quan trọng. Nghị quyết của các cuộc họp dân chủ trực tiếp ở cơ sở cũng là hình thức dân chủ trực tiếp khá phổ biến ở nhiều nước. Các cuộc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân về các dự án luật tuy không trực tiếp, nhưng cũng là hình thức dân chủ được coi trọng.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, trưng cầu ý dân được quy định tại Khoản 15 Điều 70 Hiến pháp 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2013.