Hệ thống pháp luật

đãi ngộ quốc gia

"đãi ngộ quốc gia" được hiểu như sau:

Đối xử giữa các quốc gia, theo đó, nước sở tại dành cho công dân, pháp nhân nước ngoài các quyền lợi như công dân, pháp nhân của mình.Chế độ đối xử quốc gia còn được gọi tắt là đối xử quốc gia, mang tính đặc biệt, được quy định trong các văn bản pháp luật trong nước (Ví dụ: ở Việt Nam, được quy định trong Hiến pháp năm 1992, Bộ luật dân sự năm 2005, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật khoa học công nghệ năm 2000, Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế năm 2002...) cũng như trong các điều ước quốc tế đa phương và song phương (Hiệp định GATT 94/WTO, Hiệp định GATS, Hiệp định TRIPs, Hiệp định TRIMs, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000).Ví dụ: Mục 3, Điều 2, Chương I Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000 quy định: “Mỗi Bên dành cho hàng hóa có xuất xứ tại lãnh thổ của Bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho hàng hóa nội địa tương tự về mọi luật, quy định và các yêu cầu khác có ảnh hưởng đến việc bán hàng, chào bán, mua, vận tải, phân phối, lưu kho và sử dụng trong nước".Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, đãi ngộ quốc gia được quy định trong Hiến pháp năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2013; trong Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 19 tháng 06 năm 2014.