Hệ thống pháp luật

đại diện

"đại diện" được hiểu như sau:

Việc một người, một cơ quan, tổ chức nhân danh người, cơ quan, tổ chức khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền đại diện.Đại diện có đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền.Đại diện theo pháp luật do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Theo quy định của Bộ luật dân sự, người đại diện theo pháp luật bao gồm: cha, mẹ đại diện cho con chưa thành niên; người giám hộ đối với người được giám hộ; người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với pháp nhân; chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình; tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác.Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện theo pháp luật và người đại diện thông qua hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền. Người đại diện theo ủy quyền có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá thẩm quyền đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện chấp thuận.Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, đại diện được quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.”.