cướp giật tài sản
"cướp giật tài sản" được hiểu như sau:
(Hành vi) công khai chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng để tránh phản kháng của chủ tài sản.Cướp giật tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu của người khác cũng như xâm phạm trật tự công cộng nói chung. Trong Luật hình sự Việt Nam, hành vi này bị coi là tội phạm thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu. Trước khi có Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự năm 1985), tội phạm này được quy định trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 vẫn có hai tội cướp giật tài sản khác nhau - tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa và tội cướp giật tài sản của công dân. Bộ luật hình sự năm 1999 đã nhập hai tội này thành tội cướp giật tài sản.Cướp giật tài sản là một trong bốn tội phạm của nhóm tội chiếm đoạt có tính công khai về hành vi khách quan cũng như về ý thức chủ quan của chủ thể. Trong đó, cướp giật tài sản là hành vi lợi dụng sơ hở của chủ tài sản (sơ hở sẵn có hoặc do chính người cướp giật tự tạo ra) nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng lẩn tránh. Thủ đoạn nhanh chóng lẩn tránh trong thực tế thường là nhanh chóng tẩu thoát.Hình phạt được quy định cho tội cướp giật có mức cao nhất là hình phạt tù chung thân.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.