Hệ thống pháp luật

công ước luật biển của liên hợp quốcnăm 1982

"công ước luật biển của liên hợp quốcnăm 1982" được hiểu như sau:

Điều ước quốc tế đa phương quy định quyền và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên đối với các vùng biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc chủ quyền, quyền tài phán quốc gia hoặc thuộc quyền sở hữu chung của toàn thể nhân loại.Trong giai đoạn đầu, pháp luật quốc tế về biển bao gồm các nguyên tắc và quy phạm tập quán được thể hiện trong một số điều ước song phương hoặc đa phương liên quan đến nghề cá và tự do hàng hải. Phạm vi chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển và chế độ pháp lý của các vùng biển chỉ được ghi nhận trong các tuyên bố đơn phương của các quốc gia có biển. Nội dung của luật biển quốc tế chủ yếu do các cường quốc hàng hải và công nghiệp áp đặt trên nguyên tắc tự do biển, chủ quyền quốc gia hạn chế trong một dải biển rộng ba hải lý tiếp liền với bờ biển.Sau nhiều năm thực hiện pháp điển hóa luật biển quốc tế, trong các năm 1958 và 1960 các hội nghị lần thứ nhất và thứ hai về luật biển họp tại Geneva (Thụy Sĩ) với sự tham gia của 86 nước đã thông qua được một loạt công ước quốc tế về biển đầu tiên như Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về thềm lục địa, Công ước về công hải, Công ước về nghề cá và bảo vệ tài nguyên sinh vật biển ở công hải và những vấn đề mới mà chưa có sự đồng thuận cũng đã được bàn xét tuy chưa có đáp án thích hợp.Từ cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và của hoạt động khai thác tài nguyên biển và đáy đại dương, cùng với sự xuất hiện của hàng loạt các nước đang phát triển vừa giành được độc lập, đã đưa đến yêu cầu bức xúc tạo lập một trật tự pháp lý mới quốc tế trên biển và đại dương trong khuôn khổ trật tự thế giới mới.Công ước được xây dựng dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc tại Hội nghị luật biển lần thứ III của Liên hợp quốc, bắt đầu từ năm 1973 và kết thúc vào năm 1982. Công ước được 119 quốc gia chính thức ký kết (trong đó có Việt Nam) tại Montego Bay (Giamaica) vào ngày 10.12.1982 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 16.12.1994. Công ước gồm có 320 điều; ngoài ra còn có 9 phụ lục và một định ước cuối cùng của Hội nghị luật biển lần thứ III của Liên hợp quốc được đính kèm theo như bộ phận cấu thành của Công ước. Công ước quy định không cho phép bảo lưu đối với bất kỳ điều khoản nào.Việt Nam ký Công ước ngay tại Hội nghị Montego Bay năm 1982. Ngày 23.6.1994, Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 5 đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn Công ước. Ngày 14.7.1994, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi công hàm cho Tổng thư ký Liên hợp quốc chính thức thông báo về việc phê chuẩn của Việt Nam đối với Công ước.Công ước luật biển năm 1982 là một văn kiện quốc tế tổng hợp, toàn diện, bao quát được các vấn đề quan trọng nhất về chế độ pháp lý của biển và đại dương thế giới, quy định được những quyền lợi và nghĩa vụ về nhiều mặt của mọi loại quốc gia...