công ty
"công ty" được hiểu như sau:
Sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành các hoạt động để đạt được mục tiêu chung nào đó. Công ty có các đặc điểm sau: 1) Sự liên kết của ít nhất hai cá nhân hoặc pháp nhân; 2) Sự liên kết được thực hiện thông qua sự kiện pháp lý (điều lệ, hợp đồng hoặc quy chế); 3) Sự liên kết hướng tới mục tiêu là thực hiện hoạt động chung nào đó.Căn cứ vào mục đích của sự liên kết, công ty được chia thành công ty dân sự và công ty kinh doanh. Căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ trách nhiệm của công ty và của thành viên công ty, công ty được chia thành nhiều loại như công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.Ở Việt Nam, thuật ngữ công ty tồn tại từ trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Nhưng lúc bấy giờ, thuật ngữ công ty dùng để chỉ đơn vị kinh tế nhà nước hoạt động kinh doanh thương mại hoặc dịch vụ. Thuật ngữ công ty theo nghĩa này là thuật ngữ sử dụng không chính thức.Pháp luật Việt Nam hiện hành quan niệm công ty là tổ chức do nhà đầu tư đầu tư vốn thành lập để thực hiện hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận.Luật công ty năm 1990 ghi nhận công ty là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn. cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình vào công ty. Thuật ngữ công ty theo Luật công ty năm 1990 không bao quát hết tất cả các loại hình công ty mà chỉ chính xác đối với loại hình công ty đối vốn.Luật doanh nghiệp năm 1999 không xác định thuật ngữ công ty nói chung mà chỉ xác định khái niệm các loại công ty cụ thể như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp năm 1999 thừa nhận tất cả các loại công ty trên là doanh nghiệp do các nhà kinh doanh đầu tư vốn thành lập để thực hiện hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận.Luật doanh nghiệp năm 1999 không chỉ sử dụng thuật ngữ công ty để chỉ các doanh nghiệp do sự liên kết của 2 chủ thể trở lên thành lập mà còn công nhận loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có 1 thành viên là pháp nhân. Trước đó. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 cũng quy định doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài do 1 cá nhân, tổ chức là nhà đầu tư nước ngoài thành lập được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.Luật doanh nghiệp năm 2005, ngoài việc xác định các loại công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp doanh như luật doanh nghiệp năm 1999 còn xác định thêm doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, nhóm công ty (công ty mẹ - công ty con; tập đoàn kinh tế; các hình thức khác).Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, các quy định về công ty được quy định tại Luật doanh nghiệp năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2014.