Hệ thống pháp luật

Công ty chấm dứt hợp đồng lao động vì nghỉ quá số ngày quy định

Ngày gửi: 20/08/2020 lúc 09:48:13

Mã số: LD303

Câu hỏi:

Tại công ty Cổ phần Quốc tế AIA, chị Hoài là nhân viên Lễ tân của công ty từ ngày 15/4/2010. Ngày 13/01/2016 chị bị bỏng khi nấu ăn tại nhà. Chị có đơn xin nghỉ và được Giám đốc đồng ý để điều trị tại bệnh viện 115. Ngày 01/3/2016 chị quay lại làm việc, ngày 02/3/2016 phòng Nhân sự thông báo công ty chấm dứt hợp đồng lao động với chị vì lý do chị nghỉ quá số ngày quy định và có vết thẹo trên mặt nên không thể làm tiếp tân được. Chị Hương không đồng ý khiếu nại lên Giám đốc, Giám đốc ủy quyền cho thư ký giải quyết. Trên cơ sở các quy định hiện hành, anh/chị hãy xác định: - Công ty cho chị Hương nghỉ việc là đúng hay sai? - Nếu chị Hương được công ty cho nghỉ việc thì được giải quyết những chế độ gì?

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Thứ nhất, về việc công ty cho chị Hoài nghỉ việc:

Theo Điều 36 Luật lao động năm 2012, người sử dụng lao động chỉ có quyền chấm dứt hợp đồng lao động trong các trường hợp sau:

"1. Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của Bộ luật này.

2. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.

3. Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động.

4. Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật này.

5. Người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án.

6. Người lao động chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết.

7. Người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.

8. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại khoản 3 Điều 125 của Bộ luật này.

9. Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật này.

10. Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật này; người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhật, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã."

Theo trường hợp của chị, các khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 5, khoản 6, khoản 7, khoản 8, khoản 9 nêu trên đều không phù hợp.

Khoản 10 Điều 36 Luật lao động năm 2012 quy định về trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng của người sử dụng lao động và trường hợp người sử dụng lao động chấm dứt hợp đồng lao động do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do tổ chức lại doanh nghiệp. Loại trừ nguyên nhân thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do tổ chức lại doanh nghiệp, chỉ còn khả năng công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.

Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng của người lao động được quy định tại Điều 38 Bộ luật lao động năm 2012 như sau:

"1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:

a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;

b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.

Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;

c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;

d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này."

Theo như bạn trình bày, chị Hoài làm việc tại công ty AIA từ ngày 15/4/2010 nên tại thời điểm chị Hoài găp tai nạn, hợp đồng lao động giữa chị Hoài và công ty sẽ là hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng xác định thời hạn. Thời gian chị Hoài nghỉ để điều trị là 47 ngày, tương đương 1 tháng 17 ngày. Do đó, khoảng thời gian chị Hoài nghỉ việc để điều trị vẫn nằm trong thời hạn được phép nghỉ để điều trị và công ty không có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng với chị Hoài. Hơn nữa, trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, công ty phải báo trước cho chị Hòa một khoảng thời gian hợp lý được quy định tại khoản 2 Điều 38 Bộ luật lao động 2012 như sau:

a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;

Như vậy, việc công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng với lý do chị Hoài nghỉ quá số ngày cho phép là trái với quy định của pháp luật.

Thứ hai, về chế độ của chị Hòa khi nghỉ việc:

Như đã phân tích ở trên, công ty chấm dứt hợp đồng với chị Hoài trong trường hợp này là trái với quy định của pháp luật. Vì vậy công ty AIA có nghĩa vụ quy định tại Điều 42 Bộ luật lao động 2012 như sau:

1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.

3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.

4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.

5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

Căn cứ vào từng trường hợp, chị Hoài có quyền yêu cầu công ty thực hiện những nghĩa vụ trên.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM