Hệ thống pháp luật

công pháp

"công pháp" được hiểu như sau:

Luật pháp điều chỉnh các quan hệ có tính chất nhà nước và xã hội; phân biệt với luật tư - luật pháp điều chỉnh các quan hệ giữa các cá nhân với nhau.Thuật ngữ “công pháp” xuất hiện lần đầu tiên trong Luật La Mã cổ đại và được duy trì trong hệ thống pháp luật lục địa châu Âu cho đến ngày nay. Hệ thống pháp luật lục địa châu Âu chia toàn bộ các ngành luật thành hai bộ phận: Droit publique (Public law) và Droit privé (Private law), tương ứng với thuật ngữ tiếng Việt là công pháp và tư pháp, ở các nước theo hệ thống pháp luật lục địa châu Âu, công pháp bao gồm những ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc giữa các cơ quan nhà nước với tư nhân như luật hiến pháp, luật hành chính, luật tài chính, luật ngân hàng, luật hình sự, luật môi trường... Khái niệm “công pháp" đối lập với khái niệm "tư pháp" - những ngành luật điều chỉnh các quan hệ giữa cá nhân với cá nhân như luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình... Trong pháp luật quốc tế cũng có sự phân biệt công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế: công pháp quốc tế bao gồm các quy định pháp luật quốc tế thiết đặt các nguyên tắc và điều chỉnh các mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhà nước và các chủ thể khác tham gia các tổ chức quốc tế, điều ước quốc tế. Trong giao tiếp và có khi cả trong học đường, công pháp quốc tế còn được gọi bằng một thuật ngữ chung “pháp luật quốc tế”. Tư pháp quốc tế là tổng hợp các quy định pháp luật quốc tế điều chỉnh những mối quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ tài sản và các quan hệ liên quan với các quan hệ dân sự cũng như các quan hệ hôn nhân gia đình, lao động và tố tụng có tính quốc tế.