Hệ thống pháp luật

công nhiên chiếm đoạt tài sản

"công nhiên chiếm đoạt tài sản" được hiểu như sau:

 (Hành vi) lợi dụng hoàn cảnh chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản, công khai chiếm đoạt tài sản của họ.Công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu của người khác. Xét về tính chất, công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản có tính công khai. Trong Luật hình sự Việt Nam, hành vi này được quy định với tội danh riêng - tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc tài sản của công dân) kể từ khi có Bộ luật hình sự năm 1985.Công nhiên chiếm đoạt tài sản là công khai chiếm đoạt tài sản mà không cần dùng thủ đoạn tích cực để chống lại chủ tài sản. Ví dụ: Lợi dụng người thợ đang ở trên cột điện cao, kẻ phạm tội đã công khai lấy xe đạp của họ để bên dưới. Hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản bị coi là tội phạm thuộc chương “Các tội xâm phạm sở hữu” khi: 1) Tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 500.000 đồng trở lên, hoặc 2) Tài sản chiếm đoạt có giá trị dưới 500.000 đồng nhưng đã gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc 3) Tài sản chiếm đoạt có giá trị dưới 500.000 đồng nhưng chủ thể đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích.Hình phạt chính được quy định cho tội này có mức cao nhất là tù chung thân. Hình phạt bổ sung cho tội này có thể là phạt tiến đến 100 triệu đồng.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.