Hệ thống pháp luật

Công an gọi lên lấy lời khai qua điện thoại có đúng không?

Ngày gửi: 16/01/2020 lúc 11:31:12

Mã số: HTPL41887

Câu hỏi:

Thưa luật sư. Cho em hỏi. Em ở vũng tàu. Tự nhiên 1 buổi sáng kia có 1 người tự gọi điện thoại tự xưng cảnh sát hình sự. Nói có gửi thư mời em lên tỉnh bà rịa dể điều tra 1 sự việc. Sao em chưa ra. Em có nhận được thư mời chưa? Em nói chưa. Mà thực sự em rất ngở ngàng. Em hỏi. Ủa em có làm gì hay phạm tội gì không mà mời vậy anh ? Anh CS đó nói. Gửi thư mời từ thứ 2 mà nay là thứ tư tôi chưa thấy chị lên. Hôm nay thì tôi gọi điện mời chị lên điều tra sự việc. Và lên đi rồi biết. Em nghe vậy cũng lo và hoang mang không biết mình bị điều tra vê chuyện gi. Rồi em nói cho gia đình em biết. Thì gia đình em nói chắc bị gạt. Nên em cũng không đi. Và dến chiều anh Cs đó gọi lại hỏi sao không thấy em lên. Thi chồng em nghe dt nói. Anh gọi vợ tôi làm gì. Thì anh cũng nói lên để điều tra 1 sự việc mà không nói việc gì. Rồi anh Cs đó nói tôi gọi mời mà không lên thì đừng trách. Cho em hỏi anh Cs đó làm vậy đúng không? Em thực sự không có nhận thư mời hay thư gì hết. Vậy em phải làm sao. Xin luật sư cho em biết.?

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

1. Căn cứ pháp lý

Bộ luật Tố tụng hình sự 2003

2. Nội dung tư vấn

Theo quy định của pháp luật tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, trong quá trình điều tra, Công an cũng có thể yêu cầu người dân đến và hợp tác thông qua giấy mời hoặc giấy triệu tập. Giấy mời và giấy triệu tập là hai loại giấy có bản chất khác nhau.

Hiện tại, chưa có văn bản pháp luật nào quy định người dân khi nhận được giấy mời (không rõ thẩm quyền) của Công an là bắt buộc phải đến theo yêu cầu. Như vậy, bạn không phải bắt buộc đến theo yêu cầu trong trường hợp bạn có giấy mời của cơ quan Công an và cụ thể là giấy mời bạn cũng chưa nhận được mà chỉ nhận thông báo qua điện thoại nhưng không rõ ràng.

– Bị can: phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát (theo khoản 3 Điều 49).

– Bị cáo: phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án (theo khoản 3 Điều 50).

– Người bị hại: là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án (theo khoản 4 Điều 51).

– Nguyên đơn dân sự: là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nguyên đơn dân sự phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án và trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc đòi bồi thường thiệt hại (theo khoản 3 Điều 52).

– Bị đơn dân sự: là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Bị đơn dân sự phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án và trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại (theo khoản 3 Điều 53).

>>> Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua tổng đài: 024.6294.9155

– Người làm chứng: người nào biết được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng. Người làm chứng có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án (theo khoản 4 Điều 55).

Trong tất cả các tường hợp trên khi gửi Giấy triệu tập thì người nhận được giấy đều có quyền được biết các thông tin về: Quyết định khởi tố vụ án Hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng; tư cách tham gia tố tụng của mình là gì, giải thích rõ quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng riêng theo từng loại tư cách tham gia, và ghi rõ vào biên bản làm việc. Nếu Công an không làm rõ được những điểm đó, giấy triệu tập không có căn cứ và không tạo ra nghĩa vụ phải đến.

Giấy triệu tập được giao trực tiếp cho người có nghĩa vụ hoặc thông qua chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng cư trú hoặc làm việc.

Khi có hành vi bỏ trốn nhằm trốn tránh nghĩa vụ có mặt theo yêu cầu của giấy triệu tập, người bị triệu tập có thể bị truy nã theo quy định tại Điều 82 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003.

Điều 82. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã

1. Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

2. Khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.

Vậy trong trường hợp này bạn có thể kiểm tra lại chính quyền địa phương hoặc nơi làm việc để xác nhận lại thông tin về giấy mời hoặc giấy triệu tập có được gửi đến hay không, nếu cả hai loại giấy này đều không được gửi đến cho bạn và người xưng là cảnh sát không cho bạn thông tin chi tiết về lý do nhận được giấy cũng như vụ án được để cập tới để giải quyết thì bạn không nên làm theo yêu cầu của họ tránh những trường hợp bị vướng vào những rắc rối không mong muốn như lừa đảo, bắt cóc, tống tiền,…

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM