Hệ thống pháp luật

cơ quan tư pháp

"cơ quan tư pháp" được hiểu như sau:

Cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư pháp, một trong ba quyền của quyền lực nhà nước thống nhất.Xét theo sự phân công, các cơ quan tư pháp có chức năng bảo vệ pháp luật thông qua việc kịp thời phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các hành vi trái pháp luật, có tính chất nguy hiểm cho xã hội do con người thực hiện và nhân danh nhà nước ra các chế tài thích hợp được Bộ luật hình sự quy định hoặc giải quyết các tranh chấp về dân sự, kinh tế, lao động, hành chính giữa các thể nhân hoặc thể nhân và pháp nhân, nhân danh nhà nước đưa ra các phán xét, phán quyết bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của thể nhân, pháp nhân.Về mô hình tổ chức, các cơ quan tư pháp thường được Hiến pháp - Luật cơ bản của Nhà nước quy định. Qua bốn bản Hiến pháp Việt Nam các năm 1946, 1959, 1980 và 1992, cách thức tổ chức các cơ quan tư pháp, xét theo chức năng và cơ cấu tổ chức, cũng có những điểm điều chỉnh theo quan niệm, đường lối tổ chức tư pháp ở từng thời kỳ. Theo Điều 63, Chương VI với tên chương “Cơ quan tư pháp" Hiến pháp năm 1946, cơ quan tư pháp chỉ gồm có Tòa án: "Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có: a) Tòa án tối cao: b) Các tòa án phúc thẩm; c) Các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp". Như vậy, cơ quan tư pháp chỉ gồm có tòa án ở 4 cấp và chức năng tư pháp - bảo vệ pháp luật chỉ do một mình tòa án các cấp thực hiện. Đây chính là một nét rất đặc trưng của cơ quan tư pháp của thời kỳ đầu chính quyền nhân dân. Sắc lệnh số 13 ngày 24.01.1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp theo tinh thần thể chế hóa tư tưởng và chủ trước tổ chức cơ quan tư pháp ở thời kỳ đầu, đã thiết định một hệ thống cơ quan tư pháp như sau: ở cấp xã có Ban Tư pháp gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thư ký là Ban thường vụ của Ủy ban hành chính kiêm cả việc tư pháp (Điều 2) với chức năng: 1) Hòa giải tất cả các việc dân sự và thương sự; 2) Phạt các việc vi cảnh với quyền phạt từ năm hào đến sáu đồng bạc; 3) Thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên. Tiếp đó là Tòa án sơ cấp (ở các quận), tòa án đệ nhị cấp (ở cấp tỉnh), tòa án Thượng thẩm ở cấp kì. Đáng chú ý là trong thành phần của các Tòa án đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm đều có những Thẩm phán làm chức năng điều tra, chức năng truy tố: tại Tòa án đệ nhị cấp (cấp tỉnh) có một Chánh án, một Biện lý, một Dự thẩm. Những nơi nhiều việc có thể có thêm Thẩm phán. Tại tòa thượng thẩm có Chưởng lý, Phó Chưởng lý, Tham lý, xét theo chức trách, đều là thẩm phán làm nhiệm vụ điều tra hoặc nhiệm vụ công tố. Do trong một Tòa án có các Thẩm phán làm những nhiệm vụ khác nhau, nên đã có cách nói Thẩm phán đứng (làm nhiệm vụ công tố) và Thẩm phán ngồi (làm nhiệm vụ xét xử). Theo Tờ trình của Bộ trưởng Bộ Tư pháp kèm theo dự thảo sắc lệnh số 13 thì tổ chức tư pháp được thiết kế “tòa án biệt lập đối với hành chính..." mà tòa án nói ở đây thực hành cả chức năng điều tra và công tố được tổ chức thành những bộ phận riêng trong thành phần tòa án. Từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, cơ quan tư pháp được tổ chức theo một mô hình khác: các tòa án nhân dân ở 3 cấp (cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện) chuyên chức năng xét xử; Viện kiểm sát được tách khỏi tòa án các cấp thành hệ thống riêng thực hành chức năng công tố còn chức năng điều tra lại do các Cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an thực hiện.Như vậy, hiểu theo nghĩa chặt chẽ, cơ quan tư pháp chỉ bao gồm tòa án các cấp. Nhưng tòa án không chỉ ở Việt Nam mà ở các nước, có giai đoạn không chỉ xét xử mà còn làm cả chức năng điều tra, truy tố, có giai đoạn lại chỉ chuyên trách làm chức năng xét xử, trong trường hợp đó, ngoài tòa án, cơ quan tư pháp còn có cơ quan điều tra, cơ quan kiểm sát ở ngoài tòa án.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, cơ quan tư pháp được quy định khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2013: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.”.