Hệ thống pháp luật

Có phải chịu trách nhiệm hình sự khi để người chưa đủ tuổi điều khiển phương tiện gây tai nạn

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL41729

Câu hỏi:

Thưa luật sư! hôm qua a tôi cùng bạn gái của anh tôi đi thì tự gây tai nạn đụng vào 1 chiếc xe tải đậu trên đường nhưng đoạn đường ấy chỉ cho phép xe tải ngừng chứ không được đỗ, khi xảy ra tai nạn bạn của anh tôi chết. Bạn anh tôi nắm nay 16 tuổi còn anh tôi 23 tuổi. Bạn anh tôi chở anh tôi, anh tôi bị bệnh tâm thần nhẹ. Hỏi anh tôi có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không ạ ? mong luật sư trả lời tôi sớm, tôi xin cảm ơn.

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

1. Căn cứ pháp lý

– Bộ luật hình sự 1999;

– Bộ luật hình sự sửa đổi 2009;

– Bộ luật dân sự 2005;

Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

Theo như bạn trình bày, anh bạn 23 tuổi cùng bạn gái 16 tuổi đi xe máy và gây tai nạn giao thông đụng phải chiếc xe tải. Bạn gái của anh bạn là người chở anh bạn, đồng nghĩa bạn gái của anh bạn là người điều khiển phương tiện tham gia giao thông. Khi xảy ra tai nạn, bạn gái của anh bạn chết, anh của bạn mắc bệnh tâm thần.

Theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự 1999 quy định Tội vi phạm về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau:

"1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến năm năm.

 2. Phạm tội  thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

b, Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; 

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn  giao thông;

đ, gây hậu quả rất nghiêm trọng;

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

Điều 205 Bộ luật hình sự 1999 quy định tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ. 

"1. Người nào điều động hoặc giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái xe hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến ba năm.

2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

Từ quy định trên có thể thấy, mặc dù anh bạn không phải là người trực tiếp điều khiển phương tiện giao thông nhưng anh bạn giao xe cho bạn gái (chưa đủ điều kiện điều khiển giao thông, chưa có giấy phép lái xe) điều khiển gây tai nạn giao thông dẫn đến bạn gái đó chết nên đây thuộc trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì có thể bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm theo khoản 3 Điều 205 Bộ luật hình sự 1999. Có thể bị cấm đảm nhiệm, chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến 5 năm. Tuy nhiên, bạn có đề cập đến anh bạn mắc bệnh tâm thần nhẹ thì theo khoản 1 Điều 13 Bộ luật hình sự sửa đổi 2009 quy định:

"Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh."

Như vậy, người bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Một người bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh làm mất khả năng nhận thức phải được hội đồng giám định tâm thần xác định và kết luận. Khi giám định, hội đồng giám định sẽ kết luận người này có bị hạn chế về mặt nhận thức hay không. Chỉ khi người mắc bệnh tâm thần tới mức làm mất khả năng nhận thức hành vi của mình và hành vi đó gây ra hậu quả, mới được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Trường hợp bệnh của anh bạn chưa tới mức làm mất khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi của mình thì tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà anh bạn phải chịu toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm hình sự. 

Theo đó, nếu anh bạn khi thực hiện hành vi phạm tội mà không mắc bệnh tâm thần hay các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi thì phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hậu quả gây ra. 

Từ các quy định trên, để xem xét về việc anh bạn có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không, phải căn cứ vào kết quả giám định, kết luận về khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của anh bạn.  

Hơn nữa, nếu người ngồi đằng sau là chủ của phương tiện đã gây ra tai nạn thì vẫn đề bồi thường sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2005:

Điều 623. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.

2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.…"

Do vậy, trong trường hợp này, bạn gái của anh bạn đã chết nên anh trai bạn sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại hoặc tài sản bị thiệt hại.

Trường hợp anh bạn ngồi đằng sau là chủ sở hữu của phương tiện giao thông đã giao phương tiện đó cho người bạn gái ngồi đằng trước điều khiển phương tiện mà người đằng trước không chưa tuổi theo quy định và không có giấy phép lái xe lái xe phù hợp thì anh trai bạn cũng có thể bị xử lý hành chính theo Điều 30 Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt chủ phương tiện vi phạm quy định liên quan đến giao thông đường bộ như sau:

“4. Phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 1.600.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với tổ chức là chủ xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự xe mô tô thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Tự ý cắt, hàn, đục lại số khung, số máy;

b) Tẩy xóa, sửa chữa hoặc giả mạo hồ sơ đăng ký xe;

c) Tự ý thay đổi khung, máy, hình dáng, kích thước, đặc tính của xe;

d) Khai báo không đúng sự thật hoặc sử dụng các giấy tờ, tài liệu giả để được cấp lại biển số, Giấy đăng ký xe;

đ) Giao xe hoặc để cho người không đủ điều kiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 58 của Luật Giao thông đường bộ điều khiển xe tham gia giao thông (bao gồm cả trường hợp người điều khiển phương tiện có Giấy phép lái xe nhưng đã hết hạn sử dụng).”

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM