Hệ thống pháp luật

cổ đông

"cổ đông" được hiểu như sau:

Tổ chức, cá nhân sở hữu cổ phần của công ty cổ phần và được công ty chia lợi nhuận dưới hình thức trả cổ tức.Với tư cách là thành viên của công ty cổ phần, nhìn chung, các cổ đông được hưởng lợi nhuận, được tham gia quản lý công ty và được chia tài sản khi công ty giải thể. Cổ đông có nghĩa vụ thanh toán đủ số cổ phần đã cam kết mua và khi đó, cổ đông chỉ chịu những rủi ro công ty gặp phải trong kinh doanh đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Tuy vậy, mức độ thực hiện các quyền và nghĩa vụ nói trên của các cổ đông hoàn toàn phụ thuộc vào loại cổ phần và số lượng cổ phần mà cổ đông sở hữu. Căn cứ vào loại cổ phần do cổ đông sở hữu mà Luật doanh nghiệp năm 1999 phân biệt thành cổ đông phổ thông, cổ đông ưu đãi cổ tức, cổ đông ưu đãi hoàn lại, cổ đông ưu đãi biểu quyết.Cổ đông phổ thông được tham dự và biểu quyết tất cả các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông; được nhận cổ tức; được chuyển nhượng cổ phần cho người khác; được nhận một phần tài sản tương ứng với số cổ phần góp vào công ty khi công ty giải thể, sau khi công ty đã thanh toán cho chủ nợ và cổ đông loại khác. Khác với cổ đông phổ thông, cổ đông ưu đãi biểu quyết có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ đông phổ thông nhưng không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác, cổ đông ưu đãi cổ tức được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ đông phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm nhưng cổ đông ưu đãi cổ tức không được tham dự và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông; không có quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Cổ đông ưu đãi hoàn lại có thể yêu cầu công ty hoàn lại vốn góp bất kỳ lúc nào hoặc theo các điều kiện hoàn vốn được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại. Cũng giống cổ đông ưu đãi cổ tức, cổ đông ưu đãi hoàn lại không được tham dự và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông; không có quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, cổ đông được quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2014: “Cổ đông là cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần của công ty cổ phần.”.

Ngoài ra "cổ đông" cũng được hiểu là:

Là cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần của công ty cổ phần.
(Theo khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014)