Hệ thống pháp luật

chuyển nhượng thương phiếu

"chuyển nhượng thương phiếu" được hiểu như sau:

Chuyển quyền sở hữu thương phiếu cho người khác để lấy tiền mặt hay thanh toán một nghĩa vụ.Người chuyển nhượng thương phiếu là chủ sở hữu thương phiếu. Người nhận chuyển nhượng thương phiếu là người có nhu cầu sở hữu thương phiếu hay nhận chuyển nhượng thương phiếu để thanh toán nợ với người chuyển nhượng thương phiếu. Thương phiếu được chuyển nhượng khi người sở hữu hợp pháp kí vào mặt sau thương phiếu và chuyển giao thương phiếu cho người được chuyển nhượng. Kể từ thời điểm việc chuyển giao thương phiếu được hoàn thành, người được chuyển nhượng trở thành chủ sở hữu thương phiếu, có quyền hưởng số tiền ghi trên thương phiếu (gọi là người thụ hưởng). Thương phiếu không được chuyển nhượng khi trên thương phiếu có ghi cụm từ "Không chuyển nhượng”. Theo quy định của Pháp lệnh thương phiếu (số 17/1999/PL- UBTVQH10) do ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 24.12.1999, việc chuyển nhượng thương phiếu có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau: chuyển nhượng toàn bộ số tiền ghi trên thương phiếu; ghi đầy đủ các yếu tố theo quy định của pháp luật; được người bị ký phát kí chấp nhận toàn bộ (đối với hối phiếu).Việc chuyển nhượng thương phiếu do các ngân hàng thực hiện gọi là chiết khấu hoặc tái chiết khấu (Xt. Chiết khấu; Tái chiết khấu).Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, chiết khấu được quy định tại khoản 19 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010: ” Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán”; tái chiết khấu được quy định tại khoản 20 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010: ”Tái chiết khấu là việc chiết khấu các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán” do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 16 tháng 06 năm 2015.