Hệ thống pháp luật

chung sống như vợ chồng

"chung sống như vợ chồng" được hiểu như sau:

Việc nam nữ chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng sinh hoạt như một gia đình nhưng không đăng ký kết hôn.Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: cấm người đang có vợ, có chồng chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Có nhiều biện pháp xử lý khác nhau đối với những người có hành vi vi phạm điều cấm này như phạt tiền theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự. Nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.Trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, Nhà nước ta vẫn công nhận những trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng, có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn là "hôn nhân thực tế”. Hiện nay, pháp luật chỉ công nhận là vợ chồng đối với những trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng từ trước ngày 03.01.1987, có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, chung sống như vợ chồng được quy định tại khoản 7 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 19 tháng 06 năm 2014: ” Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.”.

Ngoài ra "chung sống như vợ chồng" cũng được hiểu là:

Là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau Là vợ chồng.
(Theo khoản 7 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014)