chứng minh trongtố tụng dân sự
"chứng minh trongtố tụng dân sự" được hiểu như sau:
Hoạt động tố tụng của chủ thể tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự.Chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm các hoạt động tố tụng như cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, vv... Chứng minh được các chủ thể tố tụng thực hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Các chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm các đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Trong đó, các đương sự là chủ thể chứng minh chủ yếu. Theo Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ dể chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp; đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh; đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.Các tình tiết, sự kiện phải chứng minh trong vụ việc dân sự bao gồm: tình tiết, sự kiện mà quan hệ pháp luật giữa các bên đương sự phụ thuộc vào nó và các tình tiết, sự kiện khác có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh trong vụ việc dân sự bao gồm: tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết; những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật; những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp (Điều 80 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004).Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, nghĩa vụ chứng minh được quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015.