Hệ thống pháp luật

chứng minh tội phạm

"chứng minh tội phạm" được hiểu như sau:

Thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội.Đấu tranh chống tội phạm là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng nên trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan này. Cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, kết luận bị can, bị cáo phạm tội hay không phạm tội.Đối với bị can, bị cáo, pháp luật quy định có quyền đưa ra chứng cứ để chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Vì thế, trong những trường hợp bị can, bị cáo không đưa ra chứng cứ thì cơ quan tiến hành tố tụng cũng không được buộc họ phải chứng minh là họ vô tội hoặc trường hợp bị can, bị cáo đưa ra chứng cứ nhưng chưa đủ để chứng minh là vô tội thì cũng không vì thế mà có thể coi là họ phạm tội. Muốn xác định bị can, bị cáo có phạm tội hay không, các cơ quan tiến hành tố tụng phải dùng những chứng cứ của vụ án làm căn cứ để chứng minh tội phạm. Khi điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng minh: 1) Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; 2) Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, mục đích, động cơ phạm tội; 3) Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; 4) Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.Việc xác định nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng là để các cơ quan này đề cao trách nhiệm trong việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ chứng minh tội phạm, tránh bỏ sót tội phạm và làm oan người vô tội, vì chính các cơ quan đó là người khởi tố, buộc tội, xét xử bị can, bị cáo.