Hệ thống pháp luật

chuẩn bị phạm tội

"chuẩn bị phạm tội" được hiểu như sau:

  (Hành vi) tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra điều kiện cần thiết khác cho việc thực hiện tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó thì phải dừng lại vì nguyên nhân ngoài ý muốn.Hành vi chuẩn bị có thể là tìm kiếm, mua sắm, chế tác... công cụ, phương tiện, xây dựng kế hoạch phạm tội hoặc là thăm dò địa điểm, làm quen với người bị hại... Theo luật hình sự Việt Nam, chuẩn bị phạm tội được coi là một giai đoạn của quá trình thực hiện tội phạm, mặc dù hành vi chuẩn bị chưa phải là hành vi thực hiện, vì việc thực hiện tội phạm có xảy ra hay không và xảy ra như thế nào phụ thuộc nhiều vào hành vi chuẩn bị. Luật hình sự Việt Nam xác định người mới có hành vi chuẩn bị phạm tội vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp nhất định. Đó là những trường hợp có tính nguy hiểm đáng kể cần phải bị xử lý bằng biện pháp trách nhiệm hình sự. Từ nguyên tắc chung này có thể có những cách quy định khác nhau về trách nhiệm hình sự của chuẩn bị phạm tội. Luật hình sự một số nước còn quy định cụ thể chuẩn bị phạm tội với những tội cụ thể nào đó mới phải chịu trách nhiệm hình sự và phải chịu như thế nào trong quy định về tội cụ thể đó.Theo Bộ luật hình sự năm 1985, khi tội phạm được phân thành hai loại tội - tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng thì người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi tội định phạm là tội nghiêm trọng. Theo Bộ luật hình sự năm 1999, tội phạm được phân thành bốn loại - tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì người chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự khi tội định phạm là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.Trách nhiệm hình sự của người chuẩn bị phạm tội được giảm nhẹ hơn so với trường hợp phạm tội chưa đạt và trường hợp tội phạm hoàn thành. Trong Bộ luật hình sự năm 1985, mức độ giảm nhẹ này chưa được cụ thể hóa. Điều này chỉ bắt đầu được thực hiện trong Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, sự cụ thể hóa này vẫn còn nhiều hạn chế. Điều luật mới chỉ giới hạn mức tối đa của khung hình phạt được áp dụng cho trường hợp chuẩn bị phạm tội (không quá 20 năm tù trong trường hợp mức tối đa của khung hình phạt là tù chung thân hoặc tử hình và không quá một phần hai trong trường hợp mức tối đa của khung hình phạt là hình phạt tù có thời hạn).Nếu bản thân hành vi chuẩn bị đã đủ cấu thành tội phạm khác thì người chuẩn bị phạm tội còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này, ví dụ: hành vi chuẩn bị vũ khí quân dụng để thực hiện tội cướp tài sản cấu thành tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 14 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.