Hệ thống pháp luật

chủ văn bằng sở hữu công nghiệp

"chủ văn bằng sở hữu công nghiệp" được hiểu như sau:

Người có tên được ghi trên văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.Chế định chủ văn bằng sở hữu công nghiệp được quy định trong luật của các nước và luật pháp quốc tế, như là một trong các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp. Chủ văn bằng sở hữu công nghiệp là người được pháp luật thừa nhận có quyền sở hữu đối với đối tượng sở hữu công nghiệp được đăng ký bảo hộ và là người có độc quyền khai thác hoặc cho phép khai thác các tiện ích kinh tế gắn liền với đối tượng sở hữu công nghiệp đó, trong thời hạn bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp. Chế định chủ văn bằng sở hữu công nghiệp chủ yếu gồm các quy định của Bộ luật dân sự, Nghị định số 63/CP ngày 24.10.1996 và Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày 01.02.2001 của Chính phủ. Hai công ước lớn nhất về sở hữu công nghiệp và cũng là hai văn bản pháp luật quốc tế có chứa đựng những quy định cơ bản nhất về chủ vãn bằng sở hữu công nghiệp là Công ước Paris năm 1883, sửa đổi tại Stockholm năm 1974 và Thỏa ước Marrakech về các khía cạnh của quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến thương mại (còn gọi là Thỏa ước TRIP) năm 1994. Ngoài ra, còn có những thỏa ước liên quan đến những đối tượng sở hữu công nghiệp đặc thù, như hiệp ước hợp tác về sáng chế (PCT), ký tại Oasinhtơn năm 1984; Thỏa ước Madrid về nhãn hiệu hàng hóa, ký tại Madrid năm 1891, sửa đổi năm 1979;...Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ thông qua biện pháp cấp văn bằng bảo hộ bao gồm: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ hàng hóa. Riêng nhãn hiệu hàng hóa còn có thể được bảo hộ thông qua việc đăng ký quốc tế theo Thỏa ước Madrid.Nói chung, có hai loại đối tượng có quyền yêu cầu nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ: người đã tạo ra đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ bằng hoạt động lao động trực tiếp, độc lập của mình hoặc thông qua hoạt động sáng tạo của người lao động thuộc quyền hay của người được thuê để thực hiện việc nghiên cứu, triển khai khoa học - kỹ thuật; người được chủ sở hữu văn bằng bảo hộ chuyển nhượng quyền sở hữu đối với đối tượng được bảo hộ.Riêng văn bằng bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hóa chỉ được cấp cho những người hoạt động sản xuất, kinh doanh tại địa phương có tên gọi dùng để chỉ xuất xứ hàng hóa. Để được thừa nhận là chủ văn bằng sở hữu công nghiệp, chủ thể đó phải nộp một đơn xin cấp văn bằng bảo hộ tại Cục sở hữu công nghiệp thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Khi có nhiều người xin cấp văn bằng bảo hộ đối với cùng một đối tượng sở hữu công nghiệp thì việc cấp văn bằng bảo hộ được thực hiện theo nguyên tắc nộp đơn đầu tiên. Trong trường hợp có hai đơn xin bảo hộ đối với cùng một đối tượng sở hữu công nghiệp, do cùng một người nộp, trong đó, có một đơn được nộp sớm hơn tại một nước khác, thi, một khi các điều kiện quy định tại Điều 17 Nghị định số 63-CP có đủ, đơn nộp sau được coi như đã nộp vào ngày nộp đơn đầu tiên, Biện pháp này được gọi là "quyền ưu tiên" (priority). Quyền ưu tiên cũng được thừa nhận trong luật hiện hành, trong trường hợp trước khi nộp đơn yêu cầu bảo hộ, người nộp đơn đã cho trưng bày đối tượng sở hữu công nghiệp tại một triển lãm quốc tế chính thức. Các đơn xin cấp văn bằng bảo hộ đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp được công bố trên công báo sở hữu công nghiệp. Cục sở hữu công nghiệp ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ trên cơ sở kết quả xét nghiệm đơn. Trong thời gian xét nghiệm, bất kỳ người nào cũng đều có quyền có ý kiến bằng văn bản về việc cấp hay không cấp văn bằng bảo hộ cho người nộp đơn. Văn bằng bảo hộ sau khi được cấp sẽ được đăng bạ vào sổ đăng ký quốc gia về sở hữu công nghiệp và được đăng trong công báo sở hữu công nghiệp. Nếu trước ngày nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp mà có người đã sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp này một cách độc lập thì sau khi văn bằng bảo hộ được cấp cho người khác, người đã sử dụng trước đó vẫn tiếp tục có quyền sử dụng đối với đối tượng sở hữu công nghiệp. Biện pháp này được gọi là "quyền sử dụng trước" (previous possession right), được quy định tại khoản 21 Điều 1 Nghị định số 06/2001/NĐ-CP. Quyền sử dụng trước không thể được chuyển nhượng, trừ trường hợp chuyển giao toàn bộ quyền sử dụng trước cùng với cơ sở kinh doanh nơi tiến hành việc sử dụng trước. Người sử dụng trước không được mở rộng phạm vi, khối lượng sử dụng so với trước ngày người khác nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ.Chủ văn bằng sở hữu công nghiệp được hưởng các biện pháp bảo hộ đối với đối tượng sở hữu công nghiệp trong một thời hạn, gọi là thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ hay thời hạn bảo hộ. Thời hạn này được xác định tùy theo tính chất của đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ. Cũng tùy theo tính chất của đối tượng được bảo hộ mà thời hạn hiệu lực xác định của một văn bằng bảo hộ có thể được hoặc không được gia hạn.