Hệ thống pháp luật

chủ thể quyền sử dụng đất

"chủ thể quyền sử dụng đất" được hiểu như sau:

Các tổ chức trong nước, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam, trực tiếp tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai, có quyền và nghĩa vụ nhất định.Theo quy định của Luật đất đai năm 2003, chủ thể quyền sử dụng đất gồm; thứ nhất, tổ chức ở trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất và tổ chức kinh tế nhận chuyển quyền sử dụng đất; thứ hai, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất và được công nhận quyền sử dụng đất; thứ ba, cộng đồng dân cư được Nhà nước giao đất nông nghiệp không thu tiền sử dụng đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất đối với các công trình đền, đình, miếu, am, đất từ đường, nhà thờ họ...; thứ tư, cơ sở tôn giáo được Nhà nước giao đất phi nông nghiệp không thu tiền sử dụng đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất; thứ năm, tổ chức, cá nhân nước ngoài được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê hàng năm hoặc thu tiền thuê một lần; thứ sáu, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất thu tiền thuê hàng năm hoặc thu tiền thuê đất một lần cho toàn bộ quá trình thuê.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, chủ thể quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 5 Luật đất đai năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2013.