Hệ thống pháp luật

chủ thể quan hệ pháp luật quốc tế

"chủ thể quan hệ pháp luật quốc tế" được hiểu như sau:

Thực thể đang tham gia vào những quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ quốc tế và có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi của chính nó gây ra.Chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế gồm chủ thể cơ bản và các chủ thể khác của quan hệ pháp luật quốc tế.Đa số các luật gia quốc tế đều thừa nhận quốc gia là chủ thể cơ bản của quan hệ pháp luật quốc tế. Một số học giả khác cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, ngoài quốc gia là chủ thể cơ bản của quan hệ pháp luật quốc tế, thì các dân tộc đang đấu tranh nhằm thực hiện quyền dân tộc tự quyết, các tổ chức quốc tế liên chính phủ đều là chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế hiện đại.Khi nghiên cứu quốc gia với tính cách là chủ thể cơ bản của quan hệ pháp luật quốc tế, cần chú ý đến các tiêu chí được sử dụng rộng rãi để xác định một thực thể là một quốc gia. Cho đến nay, chưa có một định nghĩa thống nhất trên bình diện quốc tế về quốc gia. Tuy vậy, cũng có những tiêu chí được thừa nhận rộng rãi để xác định quốc gia. Theo quy định tại Điều 1 của Công ước Montevideo năm 1933 về quyền và nghĩa vụ quốc gia, thì một thực thể được coi là quốc gia theo pháp luật quốc tế phải có bốn điều kiện cơ bản sau: dân cư thường xuyên; lãnh thổ được xác định; Chính phủ; năng lực tham gia vào các quan hệ pháp luật với các thực thể quốc gia khác. Do vậy, trong thực tiễn quan hệ quốc tế, người ta thường dựa vào các tiêu chí đó để lập luận việc công nhận hoặc không công nhận một thực thể mới được thành lập là quốc gia hay không phải là quốc gia.Chủ quyền quốc gia là thuộc tính cơ bản của quốc gia, là phạm trù pháp lý - kinh tế có liên hệ mật thiết với vấn đề độc lập về kinh tế. Việc củng cố hạ tầng cơ sở kinh tế của quốc gia sẽ đưa đến kết quả củng cố chủ quyền quốc gia đó. Trái lại, sự bành trướng của tư bản nước ngoài trong một nước nào đó, trong một mức độ nhất định sẽ tạo ra những cản trở đối với việc thực hiện chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ, riêng biệt của quốc gia đó. Tuy vậy, trong điều kiện hiện nay, sự bành trướng của các tập đoàn tư bản vào nền kinh tế của nhiều quốc gia mới giành được độc lập không thể thủ tiêu được quy chế chủ quyền quốc gia của các nước nói trên. Trong thời đại hiện nay, chủ quyền quốc gia được hiểu là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia có quyền lực chính trị tối cao. Quyền lực chính trị tối cao này thể hiện qua các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của quốc gia, quyền quyết định mọi vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của quốc gia mà các quốc gia khác không có quyền can thiệp. Trong quan hệ quốc tế, quốc gia hoàn toàn độc lập, không bị lệ thuộc vào các quốc gia khác trong giải quyết vấn đề đối ngoại của mình. Việc tham gia của quốc gia vào các tổ chức quốc tế, vào các hoạt động quốc tế liên quốc gia và các hình thức hợp tác quốc tế khác là biểu hiện rõ nét kết quả thực hiện chủ quyền đối ngoại của quốc gia.Các quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản của quốc gia được hình thành và phát triển phù hợp với sự ra đời và phát triển theo chiều hướng ngày càng tiến bộ của luật quốc tế và có liên hệ mật thiết với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Nội dung các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại quy định nội dung các quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản của quốc gia trong sinh hoạt quốc tế hiện nay. Xuất phát từ các văn kiện pháp lý quốc tế hiện đại có liên quan đến quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản của quốc gia, có thể nêu ra các quyền và nghĩa vụ sau đây của quốc gia trong quan hệ quốc tế: 1) Các quyền quốc tế cơ bản: quyền bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi, quyền được tự vệ cá nhân hoặc tự vệ tập thể, quyền được tồn tại trong hòa bình và độc lập, quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ, quyền được tham gia vào việc xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế, quyền được tự do quan hệ với các chủ thể khác của Luật quốc tế, quyền được trở thành thành viên của tổ chức quốc tế phổ biến; 2) Các nghĩa vụ quốc tế cơ bản: nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền của các quốc gia, nghĩa vụ tôn trọng sự bất khả xâm phạm lãnh thổ của các quốc gia khác, không áp dụng vũ lực và đe dọa bằng vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, nghĩa vụ hợp tác hữu nghị với các quốc gia khác nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế, tôn trọng những quy phạm Jus cogens và những cam kết quốc tế, nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình.Các quốc gia có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản nêu trên trong sinh hoạt quốc tế một cách độc lập, theo ý chí của quốc gia mình, hoặc một cách cộng đồng trong quan hệ hợp tác với các quốc gia khác.Trong sinh hoạt quốc tế, quốc gia có thể tự hạn chế những quyền và nghĩa vụ cơ bản của mình trong những lĩnh vực và phạm vi nhất định, trong những điều kiện không trái với các quy ước quốc tế (ví dụ: quốc gia theo đuổi chế độ nhà nước trung lập thường xuyên, chính sách không liên kết...), hoặc cũng có thể gánh vác thêm những quyền và nghĩa vụ bổ sung nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế (ví dụ: chế độ các cường quốc theo Hiến chương Liên hợp quốc). Song tất cả những việc làm nêu trên không hạn chế hoặc mở rộng chủ quyền của các quốc gia đó. Việc làm này chỉ liên quan đến sự hình thành một quy chế pháp lý của quốc gia trong sinh hoạt quốc tế mà thôi.Bên cạnh quốc gia, các dân tộc đang đấu tranh nhằm thực hiện quyền dân tộc tự quyết cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế hiện đại. Khi thực hiện chức năng chính trị, dân tộc đang đấu tranh vì một nền độc lập và tự do chân chính thường lập ra các cơ quan nhất định để lãnh đạo cuộc đấu tranh đó và để cụ thể hóa quyền năng chủ thể luật quốc tế của mình. Trong trường hợp nói trên, dân tộc này là chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế đang ở trong giai đoạn quá độ thành lập một quốc gia độc lập có chủ quyền.Xuất phát từ chủ quyền dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết, các dân tộc đang đấu tranh nhằm thành lập một quốc gia độc lập có những quyền quốc tế cơ bản sau đây: 1) Quyền được thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong bất cứ hình thức nào, dưới bất cứ dạng nào, kể cả việc áp dụng những biện pháp để chống lại nước đang cai trị mình; 2) Quyền được pháp luật quốc tế bảo vệ và các quốc gia, các dân tộc và nhân dân trên thế giới, các tổ chức quốc tế... giúp đỡ; 3) Quyền được thiết lập những quan hệ chính thức với các chủ thể của luật quốc tế hiện đại; 4) Quyền được tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế và hội nghị quốc tế liên chính phủ; 5) Quyền được tham gia vào việc xây dựng những quy phạm của luật quốc tế và quyền được thi hành độc lập những quy phạm luật quốc tế hiện nay.Bên cạnh các quyền quốc tế cơ bản đó, các dân tộc đang đấu tranh cũng có những nghĩa vụ quốc tế nhất định trong sinh hoạt quốc tế (tương tự như nghĩa vụ quốc tế của quốc gia).Các tổ chức quốc tế liên chính phủ (liên quốc gia) cũng là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật quốc tế theo thỏa thuận của các quốc gia, chính phủ thành viên.Khi phân tích các văn bản thành lập Liên hợp quốc, các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc và cơ quan năng lượng nguyên tử bên cạnh Liên hợp quốc (IAEA), có thể nêu ra các quyền cơ bản sau đây của chúng trong sinh hoạt quốc tế: quyền được ký kết các điều ước quốc tế; quyền nhận cơ quan đại diện và quan sát viên thường trực của các quốc gia chưa là thành viên tại tổ chức trên; quyền hưởng những miễn trừ và ưu đãi ngoại giao; quyền được trao đổi đại diện tại các tổ chức của nhau; quyền các cơ quan chính của các tổ chức quốc tế đó trong một số trường hợp cụ thể có các thẩm quyền quốc tế; quyền được yêu cầu kết luận tư vấn của Tòa án quốc tế của Liên hợp quốc; quyền được giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các thành viên và các tổ chức quốc tế đó.Ngoài các quyền cơ bản nói trên, các tổ chức này còn có các nghĩa vụ quốc tế nhất định. Các tổ chức này cũng có những quyền và nghĩa vụ theo các điều ước ký kết với các quốc gia, các tổ chức quốc tế khác...