Hệ thống pháp luật

chủ nghĩa hiến pháp

"chủ nghĩa hiến pháp" được hiểu như sau:

Tư tưởng đề cao, tôn sùng hiến pháp với tính cách là luật cơ bản có vai trò là trung tâm, "trái tim" của hệ thống chính trị, đời sống chính trị của một quốc gia.Những người theo chủ nghĩa hiến pháp cho rằng đời sống chính trị của xã hội như được “hiến pháp hóa”: hiến pháp trở thành chuẩn mực, tiêu chí để xem xét, đánh giá các sự kiện, hiện tượng phát sinh trong đời sống xã hội. Nhìn nhận các hiện tượng xã hội đều từ góc nhìn hiến pháp, đều thông qua lăng kính hiến pháp, trở thành một đặc trưng tiêu biểu cho sinh hoạt của một xã hội, bị chi phối bởi giáo điều hiến pháp. Mọi người như luôn luôn đặt câu hỏi: “Việc đó có hợp hiến không?”.Tư tưởng về hiến pháp như một luật cơ bản, hiện thân của những giá trị xã hội cơ bản gắn liền với cuộc đấu tranh giành quyền sống, các quyền con người cơ bản chống lại nền chuyên chế, độc tài của vua quan phong kiến, ra đời từ cuộc vận động cách mạng của giai cấp tư sản và các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột tàn bạo. Trong các xã hội phong kiến, tình hình phổ biến là nền thống trị của giai cấp địa chủ, quý tộc và vương triều vua chúa mang nặng tính bạo lực công khai, trắng trợn. Các tầng lớp xã hội bị phân chia thành các đẳng cấp khác biệt nhau gay gắt về địa vị, thân phận xã hội. Vua chúa có những quyền hành vô hạn trong khi đông đảo quần chúng nhân dân ở vào tình trạng vô quyến, các quyền làm người tối thiểu luôn bị khinh miệt, o ép và rất dễ bị chà đạp. Giai cấp tư sản vốn là một bộ phận dân cư trong các giai cấp bị áp bức, thường được gọi là đẳng cấp thứ ba, cũng phải gánh chịu ách thống trị, áp bức của vua quan phong kiến. Đồng thời, trong lòng xã hội phong kiến, giai cấp tư sản lại là giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất có ưu thế rõ rệt so với phương thức sản xuất phong kiến. Giai cấp tư sản lại bước lên vũ đài chính trị khi sự phát triển của khoa học, kỹ thuật đã thu được những thành tựu vĩ đại, chứng tỏ khả năng sáng tạo to lớn của con người, khi trào lưu văn hóa Phục hưng làm sống lại và tạo môi trường, không gian cho sự kiến tạo một nền văn hóa mới trên cơ sở kế thừa, phát huy những thành tựu, những giá trị của nền văn minh Hy Lạp, La Mã cổ đại. Trào lưu Khai sáng đã đưa lại sự mở mang lớn về mặt trí tuệ và lòng tin vào chính con người và khả năng của con người giải phóng khỏi bóng ma của thần quyền mà bao thế kỷ đã gông cùm trí tuệ loài người. Trong điều kiện đó, giai cấp tư sản đứng ra phất ngọn cờ tự do, bình đẳng, dân chủ, bác ái để tập hợp quần chúng nhân dân lao động lật đổ chế độ vua phong kiến. Khẩu hiệu lập hiến, chủ nghĩa hiến pháp, thuyết tam quyền phân lập... đã ra đời trong hoàn cảnh đó. Thực chất của chủ nghĩa hiến pháp thể hiện ở yêu sách ban hành một hiến pháp như là một nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh. Theo đó, có hiến pháp thì có tất cả: dân chủ, tự do, bình đẳng, hết chuyên chế, hết độc đoán chuyên quyền; ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được trao vào tay các cơ quan khác nhau để chế ước, kiềm chế lẫn nhau. Hiến pháp cũng là cơ sở để xây dựng một nhà nước pháp quyền, trong đó người cầm quyền, dù ở chức vụ nào đều phải lấy pháp luật làm chuẩn mực.Khẩu hiệu lập hiến, chủ nghĩa hiến pháp có những yếu tố tích cực, nhưng khi đề cao nó theo cách tuyệt đối hóa thì dễ dàng tạo ra trong tâm lý đông đảo quần chúng, nhất là khi cuộc đấu tranh có lúc phải thoái trào, "ảo tưởng hiến pháp", cho rằng chỉ cần có được một hiến pháp là có tất cả và cuộc đấu tranh cần dừng lại khi đã có một hiến pháp. V.I. Lênin phê phán mạnh mẽ “ảo tưởng hiến pháp”, thấy trong đó một thứ bùa mê có thể ru ngủ những bộ phận quần chúng nhất định làm họ xa rời cuộc đấu tranh thực chất vì những quyền lợi cơ bản của người lao động.