chiếm giữ trái phép tài sản
"chiếm giữ trái phép tài sản" được hiểu như sau:
(Hành vi) không trả lại tài sản mình được giao nhầm hoặc không nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản mình tìm được, bắt được... mà tiếp tục chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản đó.Chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi chuyển dịch tài sản của người khác đang có một cách hợp pháp thành tài sản của mình một cách trái phép. Biểu hiện của sự chuyển dịch này là hành vi tiếp tục chiếm hữu, là hành vi sử dụng hoặc là hành vi định đoạt tài sản. Xét về tính chất, hành vi chiếm giữ trái phép tài sản cũng giống như hành vi chiếm đoạt tài sản. Giữa hai hành vi này chỉ có sự khác nhau ở đặc điểm của tài sản là đối tượng của hành vi phạm tội - đối tượng của hành vi chiếm giữ là tài sản đang trong tình trạng không có người quản lý như tài sản bị giao nhầm, bị bỏ quên, bị đánh rơi... còn đối tượng của hành vi chiếm đoạt là tài sản đang có người quản lý...Theo Bộ luật hình sự năm 1999, hành vi chiếm giữ trái phép bị coi là tội phạm nếu người chiếm giữ có thái độ cố tình (cương quyết, dứt khoát không chịu trả lại hoặc không chịu giao nộp tài sản) và tài sản bị chiếm giữ có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên hoặc là cổ vật hoặc là vật có giá trị lịch sử văn hóa. Trước khi có Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự năm 1985), tội phạm này được quy định trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 vẫn có hai tội chiếm giữ trái phép tài sản khác nhau - Tội chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa và tội chiếm giữ trái phép tài sản của công dân. Bộ luật hình sự năm 1999 đã nhập hai tội này thành tội chiếm giữ trái phép tài sản.Hình phạt được quy định cho tội phạm này có mức cao nhất là 2 năm tù.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, chiếm giữ trái phép tài sản được quy định tại Điều 176 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.