Hệ thống pháp luật

chấm dứt nghĩa vụ dân sự

"chấm dứt nghĩa vụ dân sự" được hiểu như sau:

Kết thúc quan hệ nghĩa vụ dân sự đã được xác lập theo thỏa thuận của các bên hay theo quy định của pháp luật.Khi có sự kiện pháp lý là căn cứ làm chấm dứt nghĩa vụ theo quy định tại Bộ luật dân sự, thì người có nghĩa vụ không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đó nữa. Nghĩa vụ dân sự chấm dứt trong các trường hợp sau đây: nghĩa vụ được hoàn thành; theo thỏa thuận của các bên; bên có quyền miễn việc thực hiện nghĩa vụ; nghĩa vụ được thay thế bằng nghĩa vụ dân sự khác; nghĩa vụ được bù trừ; bên có quyền và bên có nghĩa vụ hòa nhập làm một; thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự đã hết; bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân, chủ thể khác chấm dứt mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân, chủ thể đó thực hiện; bên có quyền là cá nhân đã chết mà quyền yêu cầu không thuộc di sản thừa kế hoặc là pháp nhân chủ thể khác chấm dứt mà quyền yêu cầu không được chuyển giao cho pháp nhân, chủ thể khác; vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ dân sự không còn và được thay thế bằng nghĩa vụ dân sự khác; nghĩa vụ cũng chấm dứt trong các trường hợp khác, nếu pháp luật có quy định.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ dân sự được quy định tại Mục 6 Chương XIV Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015.