Hệ thống pháp luật

chấm dứt hợp đồng

"chấm dứt hợp đồng" được hiểu như sau:

Kết thúc việc thực hiện các thỏa thuận mà các bên đã đạt được khi tham gia vào quan hệ hợp đồng, làm cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng ngừng hẳn lại, bên có nghĩa vụ không có trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ và bên có quyền không thể buộc bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ được nữa. Các căn cứ để chấm dứt hợp đồng là: 1) Mục đích của hợp đồng đã đạt được, tức là khi tất cả cácquyền và nghĩa vụ đều đã được thực hiện, hợp đồng đã được hoàn thành; 2) Theo ý chí của các bên, dù cho quyền và nghĩa vụ chưa được thực hiện đầy đủ, thậm chí còn chưa bên nào thực hiện, các bên có thể thỏa thuận về việc chấm dứt hợp đồng; 3) Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện; 4) Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện; 5) Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn và các bên có thể thỏa thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại; 6) Các trường hợp khác do pháp luật quy định.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, các trường hợp chấm dứt hợp đồng được quy định tại Điều 422 Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015.