cấu thành tội phạm
"cấu thành tội phạm" được hiểu như sau:
Tổng hợp những dấu hiệu cần và đủ, đặc trưng cho tội phạm cụ thể được quy định trong luật.Luật hình sự quy định tội phạm bằng cách mô tả tội phạm được quy định. Những dấu hiệu được dùng để mô tả tội phạm phải vừa phản ánh được đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm cụ thể và vừa đủ cho phép phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác. Đó là những dấu hiệu cần và đủ, đặc trưng cho tội phạm cụ thể. Sự mô tả một tội phạm như vậy trong luật chính là cấu thành tội phạm của tội đó. Cấu thành tội phạm - được gọi cho chính xác hơn là cấu thành tội phạm cơ bản. Đối với mỗi tội đòi hỏi phải có một cấu thành tội phạm cơ bản và về nguyên tắc chỉ có thể có một cấu thành tội phạm cơ bản.Để có sự phân hóa trong việc xử lý các trường hợp phạm tội khác nhau của cùng một tội danh, luật hình sự còn xây dựng ở những tội phạm nhất định các cấu thành tội phạm giảm nhẹ, các cấu thành tội phạm tăng nặng. Như vậy, khi nói cấu thành tội phạm có thể hiểu là cấu thành tội phạm cơ bản nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa chung bao gồm cả cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm giảm nhẹ và cấu thành tội phạm tăng nặng. Khi đó, cấu thành tội phạm được hiểu là sự mô tả tội phạm trong luật.Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc của các cấu thành tội phạm nêu trên, khoa học luật hình sự phần các cấu thành tội phạm thành cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức, cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm trong đó có dấu hiệu mô tả hậu quả của hành vi phạm tội. Những tội phạm được xây dựng có cấu thành tội phạm là cấu thành tội phạm vật chất là những tội phạm mà riêng dấu hiệu hành vi chưa thể hiện được hoặc chưa thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm đó mà đòi hỏi phải có cả dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ: cấu thành tội phạm tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999) là cấu thành tội phạm vật chất. Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm trong đó không có dấu hiệu mô tả hậu quả của hành vi phạm tội. Các tội phạm được quy định có cấu thành tội phạm là cấu thành tội phạm hình thức là những tội phạm mà riêng dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện được đầy đủ tính chất nguy hiểm của tội phạm đó hoặc dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội khó xác định. Ví dụ: cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm được quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015 là cấu thành tội phạm hình thức. Một dạng đặc biệt của cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm cắt xén. Đó là cấu thành tội phạm hình thức mà trong đó dấu hiệu hành vi được hiểu bao gồm tất cả các hành vi được tiến hành nhằm thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm đó. Trong Bộ luật hình sự năm 2015 chỉ có 1 cấu thành tội phạm thuộc loại này. Đó là cấu thành tội phạm tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Trong cấu thành tội phạm của tội này, hành vi được mô tả là hành vi thành lập và hành vi tham gia tổ chức lật đổ chính quyền nhân dân. Dấu hiệu hành vi của tội này được hiểu không chỉ là hai hành vi đó mà cả các hành vi khác được tiến hành nhằm thực hiện hai hành vi này.