cáo trạng x. bản cáo trạng.
"cáo trạng x. bản cáo trạng." được hiểu như sau:
Văn bản pháp lý do Viện kiểm sát lập ra khẳng định việc truy tố bị can ra trước tòa án để xét xử.Trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 được ban hành, thủ tục làm và phê chuẩn cáo trạng được quy định tại Thông tư số 427-TT/LB ngày 28.6.1963 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công an.Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, bản cáo trạng là căn cứ làm phát sinh hoạt động xét xử vụ án hình sự và giới hạn phạm vi xét xử của tòa án. Cơ cấu bản cáo trạng gồm:Phần đầu: nêu căn cứ các điều của Bộ luật tố tụng hình sự quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra; căn cứ các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định phục hồi điều tra vụ án, quyết định khởi tố bổ sung bị can, quyết định nhập vụ án để xác định tính hợp pháp của các hoạt động điều tra, truy tố.Phần nội dung: thời gian (giờ, ngày, tháng, năm), địa điểm xảy ra tội phạm; người thực hiện hành vi phạm tội; hành vi, động cơ, mục đích, phương pháp, thủ đoạn thực hiện tội phạm, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; viện dẫn chứng cứ xác định tội trạng của bị can, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án.Phần kết luận: phải ghi rõ họ tên, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, tiền án, tiền sự của bị can; bị can bị tạm giam hay được tại ngoại; quyết định truy tố bị can về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự.Cuối cùng, phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập cáo trạng, họ tên, chức vụ của người lập, có chữ ký của người lập và đóng dấu của viện kiểm sát.Bản cáo trạng phải được giao cho bị can và lưu trong hồ sơ vụ án.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bản cáo trạng được quy định tại Điều 243 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.