Hệ thống pháp luật

Căn cứ tuyên bố hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản

Ngày gửi: 09/09/2018 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL15226

Câu hỏi:

Căn cứ tuyên bố hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản. Một hợp đồng mua bán tài sản khi nào thì có thể tuyên bố hủy bỏ? Căn cứ hủy bỏ là gì?

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

“Hợp đồng mua bán tài sản” theo Điều 428 Bộ luật Dân sự năm 2005 được hiểu:

“…là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán.”

“Hủy bỏ hợp đồng” là một trong những trường hợp chấm dứt hợp đồng dân sự, là trường hợp khi một bên vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định thì bên còn lại có quyền xóa bỏ Hợp đồng và yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại.

Xuất phát từ việc hợp đồng mua bán tài sản là một dạng của hợp đồng dân sự, do vậy để tuyên hủy bỏ Hợp đồng mua bán tài sản thì trước hết cần căn cứ theo những quy định chung về hợp đồng dân sự được quy định tại Mục 7, Chương XVII, Phần thứ ba của Bộ luât Dân sự năm 2005 (Từ Điều 388 đến Điều 427), trong đó có Điều 425 về hủy bỏ hợp đồng dân sự. Khoản 1 Điều 425 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:

“1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định…”

Từ đó có thể hiểu rằng: quyền hủy bỏ hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán tài sản nói riêng có thể do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. “Pháp luật có quy định” ở đây được hiểu là những căn cứ cụ thể để hủy bỏ hợp đồng trong pháp luật dân sự, thương mại, kinh doanh bảo hiểm, nhà ở …

Ngoài việc đưa ra những căn cứ chung thì đối với Hợp đồng mua bán tài sản, Bộ luật Dân sự năm 2005 còn đưa ra một số căn cứ cụ thể khác để hủy bỏ hợp đồng như:

“Giao vật không đúng số lượng; giao vật không đồng bộ; giao vật không đúng chủng loại; không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng dẫn sử dụng và không đảm bảo quyền sở hữu của bên mua đối với tài sản mua”.

 Cụ thể:

>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 024.6294.9155

– Điểm c khoản 2 Điều 435 Bộ luật Dân sự năm 2005 về trách nhiệm do giao vật không đúng số lượng: Trong trường hợp bên bán giao ít hơn số lượng đã thỏa thuận thì bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

– Điểm b khoản 1 Điều 436 Bộ luật Dân sự năm 2005 về trách nhiệm do giao vật không đồng bộ: Trong trường hợp vật được giao không đồng bộ làm cho mục đích sử dụng của vật không đạt được thì bên mua có quyền Hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

– Khoản 3 Điều 437 Bộ luật Dân sự năm 2005 về trách nhiệm giao vật không đúng chủng loại: Trong trường hợp vật được giao không đúng chủng, thì bên mau có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”

Điều 442 Bộ luật Dân sự năm 2005 về nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng: Nếu bên bán không thực hiện nghĩa vụ này…nếu bên bán vẫn không thực hiện, thì bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại

Khoản 2 Điều 443 Bộ luật Dân sự năm 2005 về bảo đảm quyền sở hữu của bên mua đối với tài sản mua: Trong trường hợp tài sản bị người thứ ba tranh chấp…Nếu người thứ ba có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản mua bán, thì bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM