Hệ thống pháp luật

Căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự tội chiếm giữ trái phép tài sản

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL41475

Câu hỏi:

Cho em hỏi: A đi uống cà phê cùng 1 vài người bạn, trong lúc ngồi tại bàn thì có nhân viên trong quán nhặt được chìa khóa xe hỏi có phải của A không, A bảo cứ để trên bàn đó đi, A chờ xem có người bạn nào của mình nhận chìa khóa đó không, nhưng không ai nhận rồi ra về, A về sau lấy chìa khóa đi ra cổng đưa bảo vệ và nói bảo vệ lấy xe cho mình, A chạy xe về và giữ nguyên hiện trang để sử dụng. Vài ngày sau B – chủ xe phát hiện và báo công an. Vậy A phạm tội gì, em xin cảm ơn?

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

1. Căn cứ pháp lý

Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009

2. Nội dung tư vấn

Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 144/2016/QH13, lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự 2015, nay vẫn áp dụng Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.

Trong trường hợp này, khi không ai nhận chiếc chìa khóa xe đó, A cũng đã không trả lại và dùng chiếc chìa khóa đó để lấy xe và mang xe về sử dụng. Như vậy, hành vi của A đã cấu thành tội chiếm giữ tài sản trái phép theo quy định tại Điều 141 Bộ luật Hình sự 1999:

2. Phạm tội chiếm giữ tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng trở lên hoặc cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá có giá trị đặc biệt, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm."

– Về mặt khách quan: Trước hết, người phạm tội có được tài sản là do bị giao nhầm, do mình tìm được hoặc bắt được (nhặt được). Không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp là hành vi cố tình giữ tài sản do bị giao nhầm, do tìm được hoặc bắt được khi đã có yêu cầu của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Có thể người phạm tội thừa nhận tìm được, bắt được nhưng cho rằng tài sản đó thuộc sở hữu của mình, nhưng cũng có thể không thừa nhận là mình đã được giao nhầm, đã tìm được hoặc bắt được, nhất là trường hợp được giao nhầm. Yêu cầu nhận lại tài sản bị giao nhầm, do người phạm tội tìm được hoặc bắt được là yêu cầu của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản. Nếu chưa có yêu cầu nhận lại tài sản hoặc  yêu cầu đó không phải của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản thì chưa cấu thành tội phạm tội này.

– Về mặt chủ quan: Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt, tội chiếm giữ trái phép tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn giữ bằng được tài sản do bị giao nhầm, tìm được hoặc bắt được. Ngoài mục đích này, người phạm tội không có mục đích nào khác và mục đích này cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

Sau khi mang xe về, A cũng đã có hành vi sử dụng xe, tuy nhiên hành vi này lại không cấu thành tội Sử dụng tài sản trái phép bởi đặc trưng cơ bản của tội sử dụng trái phép tài sản là người phạm tội chỉ có ý định khai thác lợi ích do tài sản đem lại chứ không có ý định chiếm đoạt tài sản, sau khi đã khai thác lợi ích của tài sản, người phạm tội sẽ trả lại tài sản cho chủ sở hữu. 

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM