Hệ thống pháp luật

cải cách pháp luật ở nhật bản

"cải cách pháp luật ở nhật bản" được hiểu như sau:

Cuộc cải cách pháp luật nhằm đưa hệ thống pháp luật phong kiến Nhật Bản vốn chịu ảnh hưởng nặng nề của pháp luật phong kiến Trung Quốc theo con đường phát triển của pháp luật tư sản; cuộc cải cách được tiến hành dưới triều vua Minh Trị Thiên Hoàng ở thập kỷ 60 thế kỷ XIX và kéo dài cho đến những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX.Cuộc Duy tân của vua Minh Trị mang tính chất của một cuộc cách mạng tư sản dù có tính thỏa hiệp, vẫn đã đưa lại những thay đổi sâu sắc trong đời sống mọi mặt của xã hội Nhật Bản với những cải cách mạnh mẽ của hệ thống pháp luật Nhật Bản.Những bộ luật đầu tiên của Nhật ra đời ở thế kỷ VII là những tập luật lệ sao chép pháp luật Trung Hoa, nhất là các quy định pháp luật hình sự và cũng có thể nói, pháp luật Nhật Bản cũng mang nặng tính chất của pháp luật hình sự mà nội dung quy định là các nghĩa vụ của các thần dân với một hệ thống chế tài hình sự nghiêm khắc, áp dụng đối với những người không chấp hành nghiêm hoặc vi phạm các quy phạm nghĩa vụ.Từ thế kỷ XIII, sự hình thành với những thế lực ngày càng mạnh mẽ các tập đoàn phong kiến cát cứ làm suy yếu sức mạnh của vương quyền trung ương. Lợi dụng tình hình đó, Mạc phủ lấn lướt quyền lực, trung ương chỉ còn là bù nhìn. Vua cha chết, Minh Trị lên ngôi. Được sự ủng hộ của các tầng lớp quý tộc chịu ảnh hưởng của văn minh phương Tây, Minh Trị thiên hoàng vừa lên ngôi đã đề ra đường lối Duy tân, tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.Ngày 6.4.1868, sau khi nắm chính quyền, chính phủ mới do Thiên hoàng Mutsuhito đứng đầu lập tức ban hành "Năm lời thề” gồm: thực hành tự do ngôn luận, chấn hưng công thương nghiệp, xóa bỏ sự phân biệt đẳng cấp, tiếp thu văn minh văn hóa phương Tây... mang tính chất của một cương lĩnh chính trị xây dựng một xã hội mới ở Nhật Bản theo con đường tư bản chủ nghĩa. Tiếp đó, ngày 11.4.1868 "Chính thể thư” được công bố thể hiện ý chí thực hiện chế độ tam quyền phân lập và một loạt Sắc dụ của nhà vua được ban hành về cải cách ruộng đất, xác lập quyền sở hữu cho những người đang chiếm hữu, đánh thuế đất dựa trên giá đất nhẹ hơn trước nhằm làm lợi cho các chủ đất, tạo ra một tầng lớp sở hữu chủ đất giàu có, đồng thời, chủ trương pháp điển hóa, ban hành các bộ luật chủ chốt được thực hiện. Năm 1873, một luật gia Pháp, giáo sư Buacônat, một chuyên gia xây dựng các bộ luật, được mời làm cố vấn pháp lý cho Chính phủ Nhật. Dự thảo Bộ luật dân sự Nhật Bản đầu tiên được xây dựng theo mô hình của Bộ luật dân sự Pháp được tiến hành và năm 1891 được công bố, nhưng bị dư luận phê phán. Những người chống đối cho rằng nó quá triệt để, phá hoại các truyền thống dân tộc Nhật. Một nhóm luật gia Nhật gồm 3 người được giao trách nhiệm soạn thảo một Bộ luật dân sự theo mô hình của Bộ luật dân sự Đức năm 1896, có tiếp thu nhiều quy định của Dự án Buacônat, được ban hành năm 1898 với tính cách của Bộ luật dân sự Nhật Bản, có hiệu lực từ năm 1899. Cùng với Bộ luật dân sự, Bộ luật thương mại, các đạo luật về quyền tác giả, về cho thuê đất đai, về thuê nhà của Nhật Bản đã được xây dựng và ban hành. Trong một thời gian dài các vấn đề về tố tụng dân sự được đạo luật về tổ chức tòa án và pháp luật tố tụng dân sự ban hành năm 1890 quy định. Đây chính là những văn bản pháp luật lần đầu tiên được áp dụng để giải quyết các tranh chấp dân sự, còn trước đó các quan hệ tranh chấp này thuộc quyền giải quyết bằng phương pháp bắt buộc của các chúa phong kiến. Phải đến năm 1926 thì Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản mới được ban hành chính thức theo mô hình của Bộ luật tố tụng dân sự Áo theo tinh thần đề cao vai trò tích cực của tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.Bộ luật hình sự là văn bản được ban hành sớm nhất, ngay trong những năm đầu Minh Trị duy tân (1870) và được sửa đổi, bổ sung năm 1873. Trên cơ sở tập hợp, hệ thống hóa các đạo luật về hình sự được ban hành dưới thời các chúa phong kiến với một điểm khác duy nhất là không dấu kín đối với dân chúng. Tra tấn vẫn được chính thức thừa nhận trong quá trình điều tra, xét hỏi. Phải đến năm 1879, theo yêu cầu của Buacônat gửi cho Chính phủ Nhật, năm 1882 dưới sự chỉ đạo Buacônat Bộ luật hình sự và luật về Tố tụng hình sự mới được ban hành mới. Đây được xem là bước phát triển dài theo con đường dân chủ, tiến bộ của hệ thống pháp luật Nhật Bản. Lần đầu tiên, nguyên tắc "không có tội và không thể có hình phạt khi luật chưa được quy định" được thừa nhận. Nguyên tắc bất hồi tố, tăng trách nhiệm hình sự cùng một loạt nguyên tắc phải được đưa vào luật. Năm 1890, lần đầu tiên Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành về cơ bản theo mô hình đạo luật tố tụng Pháp năm 1880. Đến năm 1922, Bộ luật này được thay thế bằng Bộ luật tố tụng mới theo mô hình Bộ luật tố tụng hình sự Đức năm 1877, hạn chế nhiều quyền của bị cáo.Các quan hệ lao động của công nhân, viên chức được điều chỉnh bằng một loạt các văn bản pháp luật mà nhiều văn bản được ban hành là kết quả đấu tranh tích cực của người lao động vì những quyền lợi thiết thân. Loại văn bản pháp luật này thường được ban hành chậm.Trong tiến trình cải cách hệ thống pháp luật thời kỳ Duy Tân, trong khi tiếp thu nhiều chế định pháp luật phương Tây, các nhà lập pháp Nhật Bản vẫn có ý thức giữ lại, kế thừa các quy định có tính tập quán, truyền thống, hình thành và được kiểm chứng của sinh hoạt cộng đồng. Tuy phạm vi vận dụng các quy định này ngày càng bị thu hẹp. Các quyết định của các tòa án Nhật Bản tuy về danh nghĩa, về mặt hình thức không được thừa nhận là một nguồn của pháp luật, nhưng trên thực tế các quyết định của các tòa án cấp trên (nhất là của tòa án tối cao) thường được mặc nhiên thừa nhận và vận dụng trong khi ra các quyết định của các tòa án cấp dưới.