Hệ thống pháp luật

cách ly

"cách ly" được hiểu như sau:

(Biện pháp tố tụng) tách người tham gia tố tụng khỏi những người khác để đảm bảo cho người đó khai báo trung thực, khách quan. Biện pháp cách ly được thực hiện trong giai đoạn điều tra hoặc xét hỏi tại phiên tòa.Giam riêng, hỏi cung phải riêng với từng bị can và không để họ tiếp xúc với nhau trong giai đoạn điều tra nếu vụ án có nhiều bị can (Điều 131 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).Nếu vụ án có nhiều người làm chứng thì cơ quan điều tra phải lấy lời khai riêng từng người và không để họ tiếp xúc với nhau trong thời gian lấy lời khai (khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).Tại phiên tòa, khi người làm chứng được hỏi về vụ án, chủ tọa phiên tòa có thể quyết định những biện pháp để cho những người làm chứng không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan. Trong trường hợp lời khai của bị cáo và người làm chứng có ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ tọa phiên tòa có thể cách ly bị cáo với người làm chứng trước khi hỏi người làm chứng (Điều 204 và Điều 211 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).Hội đồng xét xử phải hỏi riêng từng bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác thì chủ tọa phiên tòa phải cách ly họ (Điều 209 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, các trường hợp cách ly những người tham gia tố tụng với người khác được quy định tại Điều 183, khoản 2 Điều 304 và Điều 309 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.